cảm đó phát triển nhưng lại yếu ớt, thì ý tưởng về tính đúng sai của điều tôi nói
có quan trọng gì, nếu không phải là cho nó thêm sức mạnh? Thực vậy, lòng
thương xót sẽ càng mạnh mẽ hơn khi con vật - khán giả tự đồng hoá (2) một cách
thân thiết hơn với con vật đang đau đớn. Vậy mà, rõ ràng là sự đồng hoá này hẳn
là phải sít sao hơn rất nhiều trong tình trạng thiên nhiên hơn là trong tình trạng lý
luận. Chính lý tính làm sản sinh lòng tự ái, và chính sự phản tư (la réflexion) càng
tăng cường hơn lên tình cảm đó; chính sự phản tư nó gấp nếp con người lên chính
mình; chính nó cách ly con người khỏi tất cả những gì làm cho nó khó chịu và
phiền muộn…
Jean Jacques ROUSSEAU,
Diễn từ về nguồn gốc sự bất bình đẳng giữa con người, phần I.
1. Nhà văn Anh vào thế kỷ XVII, tác giả quyển "Ngụ ngôn của loài ong".
2. Vai trò của trí tưởng tượng.
Sự hư hỏng của tình trạng thiên nhiên đầu tiên: "xã hội mới phát sinh" (la
corruption du premier état de nature: la sociéte naissante)
Phần đầu của diễn từ thứ nhì mô tả tình trạng nguyên thuỷ của con người như một
trạng thái lạc phúc hoàn toàn nhờ tính giản ước của các nhu cầu, dễ dàng được
thiên nhiên thoả mãn. Đầu óc hạn hẹp của con người tự nhiên - với những khả
năng chưa được phát triển bởi đời sống xã hội-hồn nhiên đạt đến trạng thái an vui
mà các triết gia theo Épicure gọi là ataraxie (vô ưu).
Nhưng tình trạng tự nhiên bị hỏng đi với việc con người quần tụ lại và quá độ từ
đời sống du mục lên đời sống định canh định cư. Đó là thời điểm mà Rousseau
gọi là "xã hội mới phát sinh" (la société naissante). Lúc đó xuất hiện "tính tự
ái"nó thức giấc với ước muốn được người khác nhìn và ngưỡng mộ, "sự bất hoà"
sinh ra từ đó và cuối cùng tình trạng lệ thuộc mà Rousseau đặt thành tương quan
với việc chiếm hữu đất đai, việc trồng trọt và sự phân công lao động. Con người
trở thành, theo lời Hobbes, chó sói của người. Tuy nhiên, sai lầm của Hobbes,
theo Rousseau, là đã lẫn lộn tình trạng xã hội (hay tiền xã hội) với tình trạng
nguyên thuỷ của con người.