Vậy sau khi thủ tiêu những "lãnh vực" tinh thần khác nhau và đời sống hạn hẹp
của những cá nhân cùng với cả hai thế giới của đời sống này, chỉ còn lại ở đây
tiến trình vận động của Tự-ý thức phổ biến bên trong chính nó, như một hành
động tương hỗ giữa ý thức này trong hình thức của tính phổ biến với bản thân nó
trong hình thức của ý thức cá nhân: ý chí phổ biến đi vào bên trong chính nó
(geht in sich)[được chủ thể hoá], và là ý chí cá biệt đứng đối lập lại với luật lệ
phổ biến và sự nghiệp phổ biến. Nhưng, ý thức cá biệt này cũng đồng thời và trực
tiếp có ý thức về chính mình như là ý chí phổ biến; nó hoàn toàn ý thức rằng: đối
tượng của nó là luật lệ do đó nó ban hành, là sự nghiệp do chính nó thành tựu;
nghĩa là: trong khi cuyển sang hoạt động và tạo ra tính đối tượng khách quan, ý
thức cá biệt không làm cái gì cá biệt, riêng lẻ mà trái lại, chỉ tạo ra [ban bố] luật
pháp và [tiến hành] những hành động [quản lý] của Nhà nước.
Như thế, tiến trình vận động này là sự tương tác (die Wechselwirkung) của ý thức
với chính nó thôi, trong đó ý thức không để cho bất kỳ cái gì có thể thoát ly thành
một đối tượng tự do [tách biệt] đứng đối lập lại với nó. Kết quả của việc này là: ý
thức không thể đạt được một thành tựu tích cực nào cả, dù đó là những thành tựu
phổ biến của ngôn ngữ lẫn của hiện thực, dù là những luật pháp và định chế phổ
biến của sự tự do có ý thức hay những hành vi và thành quả của tự do ý chí.
Thành quả mà sự tự do "mang lại ý thức cho chính mình" này [hành vi quản lý
nhà nước] có thể đạt đến được ắt là ở chỗ: với tư cách là bản thể phổ biến, tự biến
mình thành một đối tượng và thành một tồn tại đứng yên, thường tồn (ein
bleibendes Sein). Cái tồn tại-khác [mang tính đối tượng khách quan] này ắt hẳn là
sự phân biệt trong lòng sự tự do, theo đó, nó tự phân chia thành những "lãnh vực"
tinh thần ổn định và thành những bộ phận của các quyền lực được phân biệt rõ
ràng. Những "lãnh vực" này, một phần, là những chức năng được hình thành bằng
tư tưởng [những "vật-tư tưởng": Gedankendinge] về một quyền lực được phân
lập thành lập pháp, tư pháp và hành pháp; nhưng, phần khác, chúng cũng có thể
là những bản chất thực tồn như đã thể hiện trong thế giới văn hoá hiện thực; và -
nếu xem xét nội dung của việc làm phổ biến kỹ hơn - chúng chính là những lãnh
vực chuyên môn hoá của lao động, những lãnh vực này tiếp tục được phân biệt
thành những "tầng lớp" [hay những "giai cấp"] xã hội (Stnde) đặc thù. Sự tự do
phổ biến - đã tự chuyên biệt hoá bằng cách ấy thành những bộ phận cấu thành
khác nhau và cũng qua đó, đã biến chính mình thành một bản thể trong môi