1. Theo nghĩa của Hegel: Tinh thần như là khái niệm.
2. Động từ Greifen (nắm bắt: tiếng Pháp: saisir) cho ra danh từ Begriff (le
Concept: Khái niệm).
3. Phê bình giác tính trừu tượng.
4. Phê bình quan niệm tự do như là tuỳ ý (libre arbitre).
SCHOPENHAUER
(1788 - 1860)
Nguyên quán ở Dantzig, con trai của một thương gia giàu có, có đầu óc theo
Voltaire và châu Âu - Arthur Schopenhauer bắt đầu việc học hành khá muộn ở đại
học Gưttingen và hoàn tất ở đại học mới mở ở Berlin, ở đó ông là môn đệ của
Fichte.
Năm 1813 ông đỗ tiến sĩ ở đại học Iéna với một luận án đáng lưu ý về Bốn cỗi
nguồn của nguyên lý túc lý (De la quadruple racine du principe de raison
suffisante) trong đó ông diễn giảng, theo đường rẽ nước của Kant, rằng nguyên lý
túc lý không phải là Định mệnh nó an bài mọi sự, kể cả thần linh, mà nguyên lý
này chỉ có một giá trị hiện tượng (une valeur phénoménale), chỉ là công thức tổng
quát diễn tả một định luật đặc thù theo đó mỗi một trong bốn loại của những biểu
tượng nơi chúng ta phải tuân phục theo. Việc sử dụng nguyên lý này trong lãnh
vực siêu hình học rõ ràng là bất chính (illégitime).
Thêm vào cuộc hội ngộ với triết học Kant vào năm 1810 là cuộc trùng phùng với
Phật giáo năm 1814. Chính dưới cái ảnh hưởng kép này mà Schopenhauer xuất
bản năm 1819 tác phẩm lớn của ông: Thế giới như ý chí và như biểu tượng (Die
Welt als Wille und Vorstellung - Pháp: Le Monde comme Volonté et comme
Représentation). Kể từ đấy, tiến hoá triết học của ông đã hoàn tất. Công trình về
sau của ông chỉ nhằm thâm cứu, minh hoạ và giảng luận mà thôi.
Schopenhauer đã chờ đợi sự nổi danh tức thời từ tác phẩm này, nhưng buồn thay,
tác phẩm, lúc ban đầu là một sự thất bại đến ê ẩm! Vào năm 1820, được phép