phê phán để xác định những phạm trù cố định và bất biến, và như thế, xem xét
phương diện kinh viện lớn nhất của chủ thuyết Kant, một phong trào hướng về
một chủ nghĩa duy lý cởi mở hơn.
Trong khi vẫn duy trì tính độc đáo của những xác tín riêng cho các tác giả kế tiếp
nhau, những tộc hệ tư tưởng này đã cộng sinh suốt chiều dài thế kỷ. Có lẽ, trường
phái Chiết trung đã lụi tàn cùng với thế kỷ, nhưng triết học của Lachelier, chẳng
hạn, dưới những hình thức cách tân, sẽ còn được duy trì cho đến thế kỷ tiếp theo.
Và liệu ai có thể nói rằng chủ nghĩa duy tâm biện chứng, từng bị Brunschvig lên
án nặng nề, thì đã dứt khoát bị loại khỏi vũ đài tư tưởng dưới mọi hình thức,
trong khi người ta sẽ thấy rằng cái Tinh thần Khoa học Mới ít ra cũng nhắc nhớ
lại vai trò trọng yếu, trong các khoa học, những ý tưởng về đối nghịch, phủ định,
bổ sung, tương giao?
Một vài đối nghịch lớn vẫn tồn tại bên trong những nhóm này.
Hamelin, mặc dầu muốn làm kẻ kế tục của Renouvier, trong thực tế, bởi chủ
nghĩa duy tâm nghiêm xác và bởi sự kêu gọi đến biện chứng pháp, đã khai mở
một triết học với một tinh thần hoàn toàn khác với tân thuyết phê phán.
Lachelier không mở đường từ tâm lý học sang siêu hình học mà không tạo ra một
đổ vỡ phương pháp luận triệt để (une rupture méthodologique radicale), bởi vì,
ngay cả nếu việc khải lộ tư tưởng thuần tuý đánh dấu sự truy cập đến đó, người ta
chỉ đi từ cái này sang cái kia bằng cách đi từ phân tích đến tổng hợp - mà đây
không phải là trường hợp với Lagneau, người chỉ giữ lại một phân tích ở hai cấp
độ.
Cuối cùng, đáng lưu ý là sự khác biệt giữa chủ nghĩa duy linh của Biran, trong đó
tinh thần không liên tục với đời sống và chủ nghĩa duy linh của Bergson, trong đó
Đà sống là Năng lượng tinh thần. Maine de Biran bám trụ vào một nhân loại học
trong khi Bergson nhắm đến một vũ trụ học, trong viễn tượng của một thuyết
Tiến hoá đích thực. Vả chăng Maine de Biran là một nhà siêu hình học rụt rè,
theo ý nghĩa là đối với ông không có khoa học về tuyệt đối thể: siêu việt thể chỉ
được đạt tới trong thiên ân, nghĩa là bởi một khải ngộ sống thực (une révélation
vécue) của một sự kiện ban sơ mới đối lập với cố gắng và mang yếu tính huyền