thủ nơi những người theo Proudhon, chống nhà nước quá sớm nơi Bakunine hay
quá hẹp hòi nơi Blanqui.
Trong cuộc sống lưu vong ở Luân Đôn, Marx rất nghèo, phải nhờ sự giúp đỡ của
Engels và những khoản nhuận bút ít ỏi từ các bài báo.
Từ đầu những năm 1850, Marx lao vào nghiên cứu cấu trúc kinh tế của những xã
hội, mà ông nhìn nhận là cơ sở vật chất của chúng: Tư bản luận trước tiên là một
phân tích khoa học về chủ nghĩa tư bản Anh quốc; đó cũng là sự "phê phán kinh
tế chính trị" bởi nó soi sáng tính cách lịch sử chứ không phải vĩnh hằng của
những phạm trù của tư tường kinh tế; cuối cùng đó là sự hiệu chỉnh toàn bộ
những tương quan giữa lý thuyết, thực tiễn và những cuộc đấu tranh cải cách.
Một công trình khổng lồ còn dang dở. Lẽ ra phải được tiếp theo bởi sự nghiên
cứu không kém cụ thể về những tiến trình chính trị và ý thức hệ. Sự vắng mặt của
cuộc nghiên cứu đó, mặc dầu có những chỉ dẫn rõ ràng, đã góp phần đưa đến một
kiểu giải thích "duy kinh tế" đối với chủ nghĩa Marx, kiểu cường điệu quá đáng
thuyết tất định kinh tế trên diễn tiến lịch sử, điều mà chính Marx và Engels về
cuối đời, đều tố cáo.
Những bản văn được soạn thảo trong thời kỳ Công xã Paris (1871) và nhân cương
lĩnh Gotha (1875) của phe xã hội dân chủ Đức nhấn mạnh trên nhu cầu đối với
giai cấp thợ thuyền là phải luôn luôn gắn liền những cuộc đấu tranh kinh tế với
những viễn tượng chính trị, phải chiếm lấy nhà nước để bẻ gãy bộ máy đàn áp,
thắt chặt những liên minh xã hội rộng lớn và thiết lập nền chuyên chính vô sản
như là giai đoạn cách mạng để dân chủ hoá dần dần toàn thể xã hội.
ENGELS
(1820 -1895)
Friedrich Engels sinh ở Barmen vùng Rhénanie nơi bố ông lập nhà máy sợi. Ỏ
Berlin, năm 1841-1842 ông tới đại học và giao du với những môn đệ trẻ của
Hegel.Nhưng ông chỉ gặp Marx vào năm 1842 ở Cologne - Được bố phái qua chi
nhánh ở Manchester, Anh quốc, ở đó ông nhìn thấy rõ sự khốn cùng của những
người lao động (tình cảnh tầng lớp lao động Anh quốc ra đời năm 1845). Từ đó