đuổi công việc của riêng mình mà không màng đến con người). Các tổ chức sản
xuất của xã hội cổ đó là cực kỳ đơn giản và sáng sủa khi đem so sánh với xã hội
tư bản. Nhưng chúng ta lại được tìm thấy, hoặc trên sự phát triển non nớt của con
người xét theo từng người một, những con người chưa cắt đứt dây rốn đã ràng
buộc họ với đồng loại của mình trong cộng đồng bộ lạc ban sơ, hoặc dựa vào các
mối quan hệ trực tiếp của sự khuất phục. Họ có thể phát triển và tồn tại chỉ khi sự
phát triển năng lực lao động sản xuất không nâng cao vượt xa giai đoạn thấp, và
vì thế, khi các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực đời sống vật chất, giữa người
với người, và giữa người với thiên nhiên, thu hẹp. Sự thu hẹp này được phản ánh
trong việc tôn sùng thiên nhiên thời cổ xưa, và trong các yếu tố khác của các tôn
giáo phổ thông. Trong bất kì trường hợp nào, sự phản ánh tôn giáo của thế giới
thực cuối cùng chỉ có thể tiêu tan khi các mối quan hệ thực tiễn của đời sống
hằng ngày không cung cấp cho con người điều gì ngoài các mối quan hệ hoàn
toàn chỉ có thể nhận thức được bằng trí óc và hợp lí với đồng loại và với thiên
nhiên.
Qui trình đời sống của xã hội được dựa vào quá trình sản xuất vật chất, không cởi
bỏ vẻ bề ngoài thần bí của nó cho tới khi nó được những con người tự nguyện
hợp tác coi là sự sản xuất, và được điều chỉnh một cách có ý thức theo đúng với
kế hoạch đã định** (Đây là khái niệm của Marx về xã hội cộng sản). Tuy nhiên,
điều này đòi hỏi xã hội phải có một cơ sở vật chất vững chắc hay các điều kiện
tồn tại khi đến lượt chúng là sản phẩm tự sinh của một quá trình phát triển lâu dài
và khó nhọc.
Tuy nhiên toàn bộ tôn giáo chẳng là gì ngoài sự phản ánh tưởng tượng trong đầu
óc con người về các sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ;
một sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh trần gian mang dáng dấp của các
sức mạnh siêu nhiên. Trong các giai đoạn đầu của lịch sử, các sức mạnh tự nhiên
được phản ánh đầu tiên và trong quá trình tiến hoá thêm nữa đã trải qua các cuộc
hoá thân khác nhau và đa dạng nhất giữa những con người khác nhau. Quá trình
ban đầu này đã được truy nguyên bằng khoa thần thoại so sánh (la mythologie
comparée), ít nhất trong trường hợp những người thuộc ngôn ngữ Ấn-Au, từ bản
gốc nơi kinh Vedas của Ấn Độ, và khi những tiến hoá xa hơn, nó được giải thích
chi tiết giữa những người Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Đức và khi mà vật chất
còn có sẵn, cũng giữa những người Xen-tơ, Lat-vi-a,và Xla-vơ. Nhưng trước đó