nhiều tinh lực. Một khi cơn nguy kịch đã qua, những dây liên lạc xã hội thành
lỏng lẻo, những cuộc giao tiếp trí thức và tình cảm chậm lại, mọi người rơi xuống
trình độ bình thường. Bấy giờ tất cả các lời nói, hành vi, tư tưởng, cảm tình trong
thời kỳ biến loạn phong phú, chỉ còn là những kỷ niệm, cố nhiên còn uy thế đấy,
như cái thực tại được ghi nhớ, nhưng không còn sống động như cái thực tại kia đã
từng sống động.
Vậy nếu con người quan niệm lý tưởng, là vì con người là một sinh vật sống với
xã hội thúc đẩy hay bó buộc con người vượt cao lên trên trình độ của mình, và
chính xã hội cung cấp phương tiện cho con người. Nhờ thế, xã hội ý thức được
tầm quan trọng của mình, bứt cá nhân ra khỏi đời sống vị kỷ và đưa con người
vào vòng sinh hoạt thượng đẳng. Xã hội không thể tự cấu thành mà không sáng
tạo ra lý tưởng. Lý tưởng, tức là những ý tưởng để tô điểm, kết tinh đời sống xã
hội vào những điểm cao nhất trong cuộc tiến triển xã hội. Người ta giảm giá xã
hội khi người ta coi nó như một cơ thể làm tròn cơ năng sinh tồn. Trong cơ thể ấy,
một tâm hồn đang sống: đó là toàn bộ lý tưởng của xã hội.
ÉMILE DURKHEIM, Phán đoán giá trị và phán đoán thực tại.
XÃ HỘI HỌC VÀ TRIẾT HỌC (Sociologie et Philosophie) -1924
Xã hội học và triết học (La Sociologie et La Philosophie)
Trong thực tế là Durkheim đã thành lập một triết học trong đó xã hội sẽ giữ vai
trò của thể tiên thiên (l’a priori) khi cung cấp những phạm trù và những giá trị,
khi đặt ra những nghĩa vụ và những lý tưởng.
Xã hội kéo cá nhân ra khỏi chính nó và hướng nó vào trong một vòng sống cao
hơn (a). Xã hội không thể được tạo thành mà không sáng tạo lý tưởng… Người ta
giảm giá xã hội không chỉ thấy nơi nó một cơ thể có tổ chức nhắm đến một số
chức năng sinh hoạt nào đấy (b). Trong cái cơ thể này có một linh hồn đang sống:
linh hồn đó là toàn bộ những lý tưởng tập thể (c).
Émile DURKHEIM, Xã hội học và triết học, t.136.