TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG TỪ KHỞI THỦY ĐẾN ĐƯƠNG ĐẠI - Trang 1636

tự lãnh hội như là tinh thần trong hoạt động phối trí (l’activité ordonnatrice) mà
nó thực thi. Bóng dáng của Kant ở đó. Alain được phong giáo sư năm 1902 ở
Paris và ông sẽ dạy ở đó đến năm 1933 ở trường trung học Henri IV. Những Mạn
đàm (Propos) đầu tiên của ông ra mắt năm 1906. Chỉ sau Thế chiến thứ nhất (mà
ông tham gia với tư cách là lính trơn), trong vòng gần năm mươi năm, ông lần
lượt cho xuất bản bốn công trình đồ sộ - mà chúng tôi trích đăng mấy bài tiêu
biểu ở đây - chúng hàm chứa nội dung lập trường triết lý của ông. Đó là những
quyển: Hệ thống Mỹ thuật (Système des Beaux_Arts - 1920), Những ý tưởng và
những thời đại (les Idées et les Âges), Những cuộc thanh đàm bên bờ biển
(Entretiens au bord de la mer - 1931), Các vị thần (les Dieux - 1934). Cũng nên
kể thêm bộ Tám mươi mốt chương về Tinh thần và những đam mê (Quatre_
vingt-un Chapitres sur l’esprit et les passions) được viết trong thời gian chiến
tranh (1917) rồi được tái biên và bổ sung, dưới tựa đề Những yếu tố của triết học
(Éléments de philosophie - 1941), cũng như bộ Những kỷ niệm với thầy Jules
Lagneau (Souvenirs concernant Jules Lagneau - 1925).

Kant, một bậc thầy (Kant, un maỵtre)

Alain tán đồng thuyết hiện thực của Kant. Tồn tại là không thể chứng minh. "Tồn
tại không thể nảy sinh từ một lý luận".

Theo những đối luận (antinomies) danh tiếng của Kant, người ta chấp nhận rằng
phản đề, thuộc về trí tuệ, (sau một giới hạn vẫn còn không gian, trước một
nguyên nhân vẫn còn một nguyên nhân, chung quanh một tình huống vẫn còn
một tình huống), rằng phản đề chỉ là một phản đề, nó không thể làm thoả mãn, nó
bỏ tinh thần trong dốt nát và căng thẳng, và nó khiến cho tồn tại không thể nảy
sinh, vì thiếu một tiền nhân đầu tiên. Và, ngược lại, cái luận đề tự phụ, rằng tất cả
đều hữu hạn, bởi vì có cái gì tồn tại, luận đề rất mạnh, mà cho đến ngày đó tôi
còn coi là không thể đánh đổ, chỉ có luận đề đem lại lý do hiện hữu và cuối cùng
biện minh cho tồn tại. Nhưng giờ đây đôi mắt tôi mở ra, và tôi nhận thấy rằng cái
gì được biện minh như thế, khép kín và đầy đủ, cái đó không thể là tồn tại. Tôi
nhận ra tại sao, bằng con đường này chúng ta lỡ hẹn với tồn tại, và rằng chúng ta
đã không tìm kiếm tồn tại, mà là yếu tính. Và lấy lại một lập luận danh tiếng (2),
tôi nói rằng chúng ta đổi chỗ món tiền của chúng ta, nhưng uổng công, bởi vì vẫn
luôn là tiền và luôn là của chúng ta, và rằng những lý do hiện hữu chẳng hề đem

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.