TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG TỪ KHỞI THỦY ĐẾN ĐƯƠNG ĐẠI - Trang 1658

môn toán, vật lý, thiên văn và triết học. Tốt nghiệp Tiến sĩ triết học ở Vienne
(1882) với một luận văn dành cho lý thuyết về phép tính các biến số, một thời
làm phụ giảng cho nhà toán học Weierstrass ở Berlin ông quay lại Vienne từ 1883
để theo giảng khoá của Franz Brentano, rồi bảo vệ ở Halle, dưới sự hướng dẫn
của Karl Stumpt, một luận văn công nhận năng lực dạy đại học, (mémoire d’
habilitation): Về khái niệm con số_ Những nghiên cứu tâm lý (1887). Giảng sư
rồi giáo sư chính thức (1894) ở đại học Halle rồi ở đại học Gưttingen từ 1901 đến
1916, sau đó ông được mời đến, để kế tục Heinrich Rickert, ở đại học
Fribourg_en_Brisgau, ở đó đó ông đã giảng dạy cho đến khi ông rút lui, năm
1928. Martin Heidegger sẽ kế tục ông. Bị xoá tên khỏi danh sách những giáo sư
thực thụ vào tháng 3 năm 1933 vì tổ tiên là người Do Thái, ông được phục hồi
công tác trong thời gian Heidegger là viện trưởng (tháng tư năm 1933 - tháng hai
1934) nhưng rồi lại bị xoá tên bởi những kẻ cầm quyền Quốc xã vào năm 1936.
Vị tổ phụ của hiện tượng học siêu nghiệm mất ở Fribourg_en_Brisgau, năm 1938,
giữa lòng một thời kỳ ảm đạm của lịch sử châu Âu mà ông đã góp công rất nhiều
để giải minh cuộc khủng hoảng: như một "cuộc khủng hoảng của lý tính" chưa
từng có trước đây.

Chính từ một toan tính nhằm mô tả chính xác những hoạt động của ý thức chúng
nâng đỡ những vận trù trong ý nghĩa và những tương quan Lôgích - toán học, mà
Husserl dấn bước trên đường của hiện tượng học trong Nghiên cứu Lôgích như là
Tổng luận sơ bộ về Lôgích thuần tuý. (Prolégo-mènes à la logique pure). Ở đó đã
đặt vấn đề trở về với chính sự vật (revenir aux choses mêmes), nghĩa là với các
hiện tượng, và trong trường hợp này là trở về với "những hiển nhiên nguyên
thuỷ" (évidences originaires) của lôgích như là đích thân chúng tự lạc hiến (telles
que se donnant elles mêmes en personne). Chính như thế mà trở thành khả hữu,
bởi việc giản quy yếu tính (réduction eidétique), một thị kiến về các yếu tính
trong một trực quan (phù hợp với "nguyên lý của các nguyên lý" của hiện tượng
học; rồi một sự phân tích tinh tế những "hoạt động noétiques" - không còn phải là
tâm lý, nhưng là có "ý hướng tính" (intentionelles) và "ban tặng ý nghĩa"
(donatrices de sens) - chúng nâng đỡ sự xuất diễn hiện tượng (l’apparition
phénoménale) với tính cách là những "giao thể ý hướng" (corrélats intentionnels)
- những noèmes - trong chính nội tại tính của ý thức. Sự khám phá ra ý hướng
tính nội tại trong ý thức đến lượt nó lại mở ra khả tính cho sự giản quy hiện tượng

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.