bởi một tiến trình khác thường được tạo ra giữa lòng sự sống qua đó tồn sinh tự
bảo đảm và nó đánh dấu hình thức sự biểu hiện của nó. Ngược lại với những gì
người ta có thể thực hiện trong một hoàn cảnh hữu hạn, và nó vẫn là đặc thù, một
trường hợp trong tình trạng tổng quát, sự hiệnthể hoá trong hoàn cảnh - giới hạn
liên quan đến toàn bộ tồn sinh, một cách độc nhất, bất khả tư nghị. Tôi không
quan tâm nữa đến những hoàn cảnh đặc thù trong cõi hữu hạn với tư cách là sinh
vật cá thể, tôi mang đến những hoàn cảnh - giới hạn của đời sống thường nghiệm,
với tư cách là tồn sinh, một quan tâm vô hạn. Đó là bước nhảy thứ ba, và là bước
nhảy thực sự qua đó "tồn sinh tiềm thể trở thành tồn sinh hiện thể" (l’existence
virtuelle devient l’existence en acte).
Karl JASPERS, Triết học, t.423-426.
1. Tham chiếu, điểm Archimède trong Cogito của Descartes.
2. Ở đây người quan sát có thể nói là tự đặt mình vào quan điểm của Sirius.
3. "Dầu thế giới có sụp đổ tan tành thành bao mảnh vụn thì tiếng động tận thế kia
cũng chẳng hề làm cho ông xao xuyến chút nào" (Horace).
4. Chủ thể của kinh nghiệm sống.
5. Đời sống mà chúng ta trải nghiệm.
6. Những hoàn cảnh giới hạn.
7. Nghĩa là bằng cách sống trải chúng.
8. Trong hoàn cảnh cụ thể này từ đó cái đúng được cảm nhận.
9. Chính là một thứ "epochè" của Husserl nhưng trong tầm mức hiện sinh.
Đâu là cốt yếu của triết lí (Quelle est l’essence de la philosophie?)
Theo nguyên ngữ Hy Lạp danh từ "philosophos" (triết gia) được đặt ra để đối lập
với danh từ "sophos" (bác học) nghĩa là triết gia yêu mến hiểu biết, trái lại bác
học sở hữu kiến thức. Nghĩa ấy ngày nay vẫn còn, nghĩa là bản chất triết lí là truy