6. Thí dụ: Thái dương hệ.
7. Chẳng hạn: Lực vạn vật hấp dẫn.
8. Theo nghĩa chính trong lòng cái đó của hữu-thể-ở-đó mới có thể xảy ra sự xuất
hiện của hữu thể.
9. Nghĩa là bao lâu mà nó xảy ra trong lòng một hiện thể thật cụ thể.
10. Chúng ta chỉ có thể tiếp thu chân lý với điều kiện tiền giả định rằng chính hữu
thể tự biểu lộ ra cho chúng ta, tự bao giờ và mãi mãi, theo cách nào đó.
Sự am hiểu ý nghĩa của hữu thể từ sự am hiểu thời gian (L’entente du sens de
"être" à partir de celle du "temps")
Ý nghĩa tối hậu của tồn sinh người (của hiện thể) là niềm ưu tư (le souci) nó đến
"nhập ngũ" vào trong cơ cấu hữu thể học của thời tính (la structure ontologique
de la temporellité) - nói cách khác là trong cơ cấu thời tính (la structure
temporelle) của một hữu thể không chỉ "trong thời gian" như một sự vật, nhưng
như một hữu thể ưu tư về "thân phận tử vong" của mình (un être qui se soucie de
sa condition mortelle). Cái thời tính này là sự kiện một hữu thể, trong suốt cuộc
hành trình tồn sinh, từ yếu tính, không ngừng bị dứt ra một cách bất khả quy hồi
khỏi cuộc trùng phùng với tự thân (la coðncidence avec soi-même) trong khoảnh
khắc. Hiện hữu của nó, theo nghĩa là "xuất-tồn" (ex-sistence) cũng là "thoát-tĩnh"
(ex-statique), bị ám ảnh trong từng mỗi khoảnh khắc bởi quá khứ và tương lai,
trên những cách thức khác nhau của "khả tính", của "tự do", của "lầm lỗi", của
"xao xuyến" - chính giữa lòng chân trời thời hướng đó như là hữu-thể-hướng-tử
(Sein-zum-Tode, être-envers-la-mort) nên luôn luôn nơi con người có sự hội
thông, am hiểu về ý nghĩa của hữu thể. Đó là lý do tại sao hữu thể không bao giờ
nên được giải minh bằng cách khác hơn là bằng những từ ngữ của thời gian. Đó
là chủ đề trung tâm của tác phẩm Hữu thể và Thời gian. Từ đó phát sinh ý nghĩa,
minh nhiên ở cuối bản văn, về một thời tính của hữu thể, theo đó ý nghĩa thời
gian của hữu thể cuối cùng có thể đến từ chính hữu thể (chứ không phải từ con
người!)