Chúng ta sẽ bày tỏ ý nghĩa của hữu thể của hiện vật được gọi là hiện thể là thời
tính (1). Sự bày tỏ này phải được xác nhận trong giải thích lại các cơ cấu đã được
mô tả tạm thời của hiện thể xét như là chúng là những cách thái của thời tính. Tuy
nhiên cắt nghĩa hiện thể như là thời tính này không đủ đưa lại một trả lời cho câu
hỏi về ý nghĩa của hữu thể tổng quát. Nhưng dù sao nó cũng chuẩn bị căn bản cho
việc thủ đắc câu trả lời này.
Chúng ta đã bày tỏ cách ám chỉ: một hữu thể tiền hữu thể học (2) như là tổ chức
hiện vật học (3) thuộc về hiện thể. Hiện thể là trong cách thể phải am hiểu, khi
đang là, một cái gì đó như hữu thể. Khi giữ vững tương quan này chúng ta sẽ bày
tỏ rằng cái mà từ đó hiện thể tổng quát có thể am hiểu và cắt nghĩa một cái gì như
hữu thể là thời gian. Thời gian phải được phơi bày ra ánh sáng và lãnh hội trung
thực như là chân trời của mọi am hiểu và cắt nghĩa hữu thể. Để điều đó được rõ
ràng cần phải có một cắt nghĩa căn nguyên về thời gian như là chân trời của sự
am hiểu hữu thể phát xuất từ thời tính như là hữu thể của hiện thể am hiểu hữu
thể (4). Đồng thời trong toàn thể công việc này bao hàm đòi hỏi tách ý niệm thời
gian đã thủ đắc được như thế khỏi am hiểu thông thường về thời gian, am hiểu
này trở nên rõ ràng trong việc cắt nghĩa thời gian như được cô đọng trong ý niệm
thời gian cổ truyền vẫn được duy trì từ Aristoteles cho tới Bergson. Ở đó cũng
phải làm sáng tỏ việc ý niệm thời gian này mà am hiểu thông thường về thời gian
nảy sinh từ thời tính như thế nào. Như thế ý niệm thông thường thời gian được trả
lại quyền hạn độc lập của nó, trái với luận đề của Bergson, luận đề xem thời gian
thông thường là không gian.
"Thời gian" từ xưa giữ nhiệm vụ làm tiêu chuẩn hữu thể học hay đúng hơn hiện
vật học (3) cho sự phân biệt ngây ngô các lãnh vực khác nhau của hiện vật.
Người ta tách hiện vật "thời gian" (các tiến trình thiên nhiên và các biến cố lịch
sử) khỏi hiện vật "vô thời gian" (các tương quan không gian và số đếm). Người ta
có thói quen phân biệt ý nghĩa "vô thời gian" của các mệnh đề khỏi diễn tiến
"thời gian" của sự phát biểu chúng. Hơn nữa người ta tìm thấy một "vực thẳm",
mà người ta cố gắng vượt qua, giữa hiện vật "thời gian" và vĩnh cửu "siêu thời
gian". "Thời gian" ở đây luôn muốn nói cũng giống như đang là "trong thời gian",
một sự xác định thực ra cũng khá là tăm tối. Sự kiện vẫn là: thời gian, trong ý
nghĩa "trong thời gian", giữ nhiệm vụ tiêu chuẩn phân biệt các lãnh vực hữu thể.
Cho tới giờ người ta không tra vấn và khảo cứu (6) xem làm thế nào thời gian