TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG TỪ KHỞI THỦY ĐẾN ĐƯƠNG ĐẠI - Trang 1892

họ không bao giờ đúng là cái này mà họ phải là; họ là sự lừa dối vĩnh cửu, chính
sự lừa dối về cái hiện hữu không bao giờ có thể đạt tới thành công hay hoàn toàn
hoà giải được với cái toàn thể của các sự vật hiện hữu.

Có cả một thế giới ý nghĩa chỉ hiện hữu qua phụ nữ; họ là yếu tính của những
hành vi và tình cảm của đàn ông, là sự nhập thể mọi giá trị thúc đẩy hoạt động tự
do của đàn ông. Có thể hiểu được rằng, cho dù đàn ông có bị kết án với những
nỗi thất vọng ghê gớm nhất, họ vẫn sẽ không sẵn sàng từ bỏ một giấc mơ mà
trong đó gói ghém mọi giấc mơ khác…

* Phần về Simone de Beauvoir là do chúng tôi (Người dịch) thêm vào. Từ "Đến
đây chúng ta... vài ba hình bóng" hoàn toàn do chúng tôi viết. Phần sau chúng tôi
tham khảo và biên dịch từ Collection Lagarde & Michard, XX Siècle, và dịch
trích văn từ quyển Le Deuxième Sexe của De Beauvoir.

CAMUS

(1913-1960)

"Tôi sinh ra trong cảnh nghèo khó nhưng dưới một vùng trời hạnh phúc", Albert
Camus đã nói thế. Ông ra đời ngày 7 tháng 11 năm 1913 ở Mondovi (Algérie) nơi
bố ông là một công nhân nông nghiệp. Sinh viên triết học ở đại học văn khoa
Alger, tại đó Camus gặp người thầy Grenier, tác giả một luận án đáng chú ý về
Jules Lequier. Ngay từ đầu thời kỳ này, Camus bắt đầu suy tư về tự do của con
người và về thiện ác. Ông nghiên cứu những nhà huyền học bi quan để biên soạn
luận văn cao học của mình: Siêu hình học Cơ đốc giáo và Tân thuyết Platon
(Métaphysique chrétienne et néoplatonisme). Năm 1937 Camus làm phóng viên
cho tờ Alger Républicain và từ 1939 ông tham gia cuộc kháng chiến chống Đức
quốc xã. Lúc đó ông thành lập tờ báo Tranh đấu (Combat) mà ông là tổng biên
tập từ 1944 đến 1947. Camus nổi tiếng với những tiểu thuyết: Người xa lạ
(L’Etranger-1942), Dịch hạch (La Peste-1947), Sa đoạ (La Chute-1956) với
những vở kịch: Ngộ nhận (Le Malentendu-1944), Caligula-1945, Tình trạng bao
vây (L’état de siège), Những người công chính (Les Justes-1950) cũng như với
những khảo luận triết học: Huyền thoại Sissyphe (Le Mythe de Sisyphe-1942),
Người phản kháng (L’Homme révolté-1951). Năm 1957 ông được giải Nobel văn

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.