b. Ý thức con người, từ yếu tính, là ý thức về sự chia lìa: tôi không phải là một đồ
vật giữa những đồ vật, và tôi chỉ có thể suy tư thế giới của những đồ vật khi nghĩ
về nó như là không phải hữu thể (Hoài hương hữu thể, Ch. IV).
1. Như vậy triết học không phải là hữu thể học nghĩa là một khoa học mà đối
tượng sẽ là hữu thể: hữu thể không phải là đối tượng, nó là cái cho phép ta suy tư
đối tượng như là thế, nghĩa là như không phải là hữu thể.
2. Hữu thể không có phi thời tính của một định luật khách quan, nó là hiện diện
vĩnh cửu mà kinh nghiệm cho phép ta suy tư đối lại với cái gì ở trong thời gian,
tiến hoá của khoa học và dòng lịch sử.
JANKÉLÉVITCH
(1903 - 1985)
Vladimir Jankélévitch sinh ở Bourges, từ cha mẹ là người Nga. Bố ông đã dịch
Freud, nhiều tác giả Slaves cũng như Schelling mà Jankékévitch sẽ bảo vệ luận
án tiến sĩ về ông này, vào năm 1933. Bị chính quyền Vichy* bãi chức năm 1940,
ông được phục hồi vào ngành giáo dục sau ngày nước Pháp được giải phóng
(1944) và từ 1951 đến 1977 là giáo sư triết học đạo đức ở Sorbonne. Cái tinh thần
với văn hoá uyên bác và sự tinh tế hiếm thấy này, người khám phá tế nhị những
từ ngữ và sắc thái, con người đầy ý thức và liêm sỉ, một cầu thủ piano xuất sắc,
cho chúng ta cơ hội biệt lệ để gặp gỡ nơi cùng một nhà tư tưởng những phẩm chất
thoạt nhìn có vẻ như không thể dung hoà: sự nghiêm xác và sáng suốt nhiều tính
phê phán; tính phóng khoáng và đa cảm của một nghệ sĩ - một triết gia đầy thiên
khiếu.
Le Je_ne_sais_quoi et le Presque_rien (Cái tôi_chẳng_biết_gì và cái
Hầu_như_chẳng_có_gì): một tựa đề tác phẩm đầy chất hài hước và khiêm tốn
giới thiệu một suy tư sắc cạnh về cái "bí mật Polichinelle" của hiện sinh như thời
gian, tự do, ý chí.. "Cách thế và Cơ hội", "Bất thức, Ngộ nhận", "Ý chí để muốn"
(la Volonté de Vouloir) là ba giai đoạn của cuộc săn đuổi huyền nhiệm của
khoảnh khắc (la chasse au mystère de l’instant).