chờ đợi những câu khác.
* Nguyên văn: "C’est l’enjeu d’une littérature, d’une philosophie, peut_être d’une
politique, de témoigner des différends en leur trouvant des idiomes". Xin thú thực
là người dịch chỉ hiểu lờ mờ câu này nên dịch chắc là chưa chính xác lắm, và sẵn
lòng chờ đợi sự chỉ giáo của các bậc cao minh.
WEIL
(1904-1977)
Éric Weil, sinh ở Parchim nước Đức, vào tháng sáu 1904. Học y khoa và triết ở
Berlin và Hambourg. Ông bảo vệ luận án ở Đức, dưới sự hướng dẫn của Ernst
Cassirer, về Pietro Pomponazzi, năm 1928. Năm 1933 ông rời nước Đức. Nhập
tịch Pháp năm 1938, bị động viên năm 1939, sau năm năm bị bắt làm tù binh, ông
trở lại giảng dạy ở trường Cao học, vào làm việc ở Trung tâm Quốc gia Nghiên
cứu Khoa học, thành lập tạp chí Critique (cùng với Georges Bataille) trong đó
ông viết nhiều về chính trị và lịch sử. Năm 1950 ông bảo vệ luận án ở Pháp
Lôgích của triết học và Hegel và Nhà nước, rồi xuất bản Triết học chính trị
(1956), triết học đạo đức (1961), Những vấn đề trong triết học Kant (1963) và hai
quyển Khảo luận và Hội thảo (1970-1971). Giáo sư ở Đại học Lille từ 1956 đến
1968, rồi ở Nice cho đến 1974, ông mất vào tháng Giêng 1977.
Những di tác: Triết học và thực tại, Những khảo luận và hội thảo sau cùng, Pietro
Pomponazzi, Pic de la Mirandole.
Thư mục nơi Gilbert Kirscher với Triết học của Éric Weil, Paris, P.U.F., 1989.
TRIẾT HỌC VÀ THỰC TẠI - Di tác
(Philosophie et Réalité) - 1982.
Khởi đi từ sự kiện là có nhiều thái độ đối mặt với và trong thực tại, rằng có nhiều
tầm nhìn khác nhau về thế giới không thể giản qui vào nhau, Éric Weil uỷ thác
cho triết học cái nhiệm vụ tìm hiểu chúng trong một diễn từ toàn bộ chứ không
giản lược, như là những hình dung của ý nghĩa. Nhưng chính cái diễn từ toàn bộ
đó lại qui về thực tại, là nền tảng và bối cảnh cho mọi diễn từ, vậy là của mọi sự