sự tẩy xổ, những phương thang, những dụng cụ là nguyên nhân của sức khoẻ, bởi
vì tất cả những phương tiện này được dùng để nhắm đến một mục đích; những
nguyên nhân này chỉ khác nhau ở chỗ có cái là công cụ, cái khác là hành động.
ARISTOTE, Siêu hình học.
1. Nằm trong bản thể với tư cách nguyên lý đầu tiên, tạo thành.
2. Niệm tính (quiddité) là yếu tính phải được thực hiện.
3. Tính nhân quả tác thành (causalité efficiente).
4. Nguyên nhân, mục đích là sự biểu lộ của điều thiện được thiên nhiên hướng về
hay được tác nhân khao khát, ngưỡng vọng.
5. Loạt những trung gian được sắp xếp như những giống của chất thể và những
giống của mô thể.
SIÊU HÌNH HỌC
Mười bốn quyển của bộ Siêu hình học (Métaphysique) thuộc về một sưu tập
không hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của Aristote: không phải tất cả mười bốn
quyển đều đích thực là tác phẩm của Aristote và ông cũng không phải là người
lập ra trật tự thư mục.
Chính Andronicus de Rhodes, trong khi xuất bản bộ sách này ở Rome vào thế kỷ
thứ nhất tr.CN, đã đặt chúng sau (méta) những quyển sách Vật lý. Từ đó có tựa
Métaphysique, áp dụng cho những tác phẩm mà Aristote gọi là Triết học đệ nhất,
để phân biệt chúng với Vật lý hay Triết học đệ nhị.
Siêu hình học quan tâm tới chất thể cũng như mô thể. Chúng tôi trích dẫn những
phân tích nêu bật tầm quan trọng của tính nhân quả mô thể (la causalité formelle)
và cuối cùng của mô thể như nguyên lý hợp nhất của hợp thể bản thể (composé
substantiel).
Mô thể có phải là bản thể?