phẩm tính nào đấy, tức có sự sống, nên nó không thể là đồng nhất với linh hồn, vì
thân xác không là điều được khẳng định của chủ thể, nhưng đúng hơn tự nó được
xem là chủ thể, nghĩa là, như vật chất (3). Như vậy, linh hồn phải là bản thể trong
ý nghĩa là mô thể của một thân xác tự nhiên, một thân xác có sự sống trong tiềm
thể (4). Và bản thể trong ý nghĩa này là chung tố (entéléchie). Vậy, linh hồn là
chung tố của một thân xác loại này.
ARISTOTE, Khảo về linh hồn.
1. Mọi bản thể nhân tạo mượn chất thể của nó từ một thân xác tự nhiên (cái
giường được làm từ gỗ) và mô thể của nó do một hữu thể tự nhiên (người thợ
mộc) tạo ra cho nó.
2. Các loại khoáng vật không phải là những sinh thể.
3. Người ta cần lưu ý sự liên kết chặt chẽ giữa các ý niệm chất thể và chủ thể.
4. Bước tiếp cận đầu tiên đến định nghĩa.
Linh hồn và chung tố
Khái niệm hiển thể tương ứng với sự hiện diện thực tế, được thực hiện thực sự,
của một mô thể của bản thể. Vậy mà, nếu hiển thể không dang dở, chuyển động
sẽ không xảy ra, trong khi về mặt khác, mỗi một khoảnh khắc của chuyển động
được quy định bởi một mô thể hiện diện trong hiển thể. Vậy là Aristote thấy cần
phải đi đến chỗ nghĩ ra một hiển thể thường trực (un acte permanent) nó không
chỉ tất yếu thành hiển thể, mà nó còn phải được diễn tả thành hiển thể thực sự (un
acte réel). Chính là để đáp ứng yêu cầu phân tích này mà từ ngữ entéléchie
(chung tố) được Aristote đặt ra để chỉ hiển thể toàn hảo, hoàn tất trọn vẹn (acte
parfait et achevé).
Chung tố được hiểu theo hai nghĩa: 1. Nghĩa hiển thể không đang là hiển thể (sở
hữu tri thức); nghĩa hiển thể đang là hiển thể (đang vận dụng tri thức).
Với nghĩa thứ nhất phải nói đến chung tố đầu tiên. Đầu tiên bởi vì nó có trước
mọi hiển thể, chúng quy định về hình thức chủ thể sinh động.