niệm một sự vận chuyển hay một sự liên tục, còn trong trực giác thì không thế; vả
lại, diễn dịch không đòi hỏi như trực giác một sự hiển nhiên hiện tại (c), nhưng có
vẻ mượn sự xác thực của nó ở ký ức. Do đó, người ta có thể nói rằng các mệnh đề
là các hậu đề trực tiếp của những nguyên tắc đầu tiên đã biết, tuỳ theo quan điểm,
khi bằng trực giác, khi bằng diễn dịch; còn chính những nguyên tắc đầu tiên thì
chỉ biết bằng trực giác và, trái lại, những kết luận cách xa thì chỉ được biết bàng
diễn dịch.
Đó là hai đường lối đưa tới tri thức một cách chắc chắn nhất: người ta không nên
chấp nhận nhiều đường lối hơn về mặt tinh thần, nhưng nên bác bỏ mọi đường lối
khác khả nghi, có thể lầm lẫn. Tuy nhiên, thái độ đó không cấm chúng ta tin rằng
điều gì do thiên khải cho biết còn xác thực hơn bất cứ tri thức nào: lòng tin ấy,
trong mọi trường hợp, hướng về những điều huyền bí, không phải là một tác động
của tinh thần mà của ý chí. Nếu lòng tin ấy có những căn bản trong trí năng,
những căn bản này, hơn các căn bản khác, có thể và phải được khám phá trước
hết bằng một trong hai đường lối đã chỉ dẫn.
DESCARTES, Những quy tắc hướng dẫn tinh thần.
1. Quyển "Những quy tắc hướng dẫn tinh thần" được Descartes viết bằng tiếng
Latinh.
a. Lưu ý sự khác nhau giữa tưởng tượng nó tự tạo nên đối tượng của mình, nghĩa
là, một cách nào đó, phát minh ra đối tượng và trí tuệ quan niệm đối tượng, nghĩa
là, một cách nào đó, tri giác đối tượng.
b. Sự dễ dàng là sự đơn giản; nó quy chiếu về, không phải ấn tượng tâm lý về sự
vắng mặt của nỗ lực, nhưng về cái gì được tự mình quan niệm, khác với cái phức
hợp nó đòi hỏi sự hiểu biết cái đơn giản để được hiểu.
c. Hiển nhiên hiện tại (l’évidence actuelle) chính là hiển nhiên; còn hoài niệm về
hiển nhiên thì không phải là hiển nhiên.
Những bản tính đơn (les substances simples )