"bởi vì Ngài không thiếu vật liệu để tạo dựng mọi sự, từ mức độ hoàn hảo cao
nhất tới mức thấp nhất"; hoặc nói đúng hơn "bởi vì luật của bản tính của Thượng
đế thì nhiều đến độ chúng đủ để tạo ra mọi sự có thể được nhận thức bởi một trí
năng vô hạn" (như tôi đã chứng minh ở MĐ16).
Đây là những thành kiến mà tôi đánh bạo nêu ra ở đây. Nếu còn lại thành kiến
nào thuộc loại này, thì bất cứ ai biết suy tư một chút cũng có thể chỉnh sửa. [Và
do vậy tôi không thấy lý do nào để dành thêm thời gian cho những vấn đề này
v.v…]
SPINOZA, Đạo đức học, Phần I, Phụ lục.
Trí tưởng tượng
Tưởng tượng và ký ức
Người ta coi tưởng tượng - vốn không biết gì về bản tính vạn vật, kể cả nhân tính
- là trí tuệ, mà trí tuệ thì mới biết được bản tính vạn vật. Tưởng tượng là có một ý
tưởng nó diễn đạt không phải bản tính của cái mà người ta tưởng tượng, cũng
không phải mắt xích nối kết những sự vật, mà điều này: rằng thân xác con người
đã được gây xúc cảm bởi một cơ thể bên ngoài và tiếp tục là như thế khi cơ thể
kia đã vắng mặt hay triệt tiêu, linh hồn vẫn coi cái cơ thể bên ngoài kia như đang
hiện diện. Như vậy trí tưởng tượng không phải từ bản tính là bà chúa nhầm lẫn và
sai bậy: trái lại việc giải thích bản chất của nó cho thấy đồng thời sự hiện diện của
hình ảnh và sự vắng mặt của đối tượng; nhầm lẫn là ở chỗ không thấy rằng đối
tượng đang vắng mặt. Và tự do của trí tưởng tượng không hề có đôi cánh phượng
hoàng để bay vút lên chín tầng trời cao ngất, bay từ Đao ly đến trời Đâu suất, và
lùa theo không biết mấy là hưông…* Mà chẳng gì khác hơn là ý tưởng về một
xúc cảm thân xác.
Những hoài niệm là những hình ảnh, chúng nối mắt xích với nhau theo trật tự và
vòng liên hoàn của những xúc cảm thân xác, chứ không phải theo trật tự và vòng
liên hoản khách quan của sự vật, như trí tuệ quan niệm chúng; trong thực tế, ký
ức nhớ lại những cuộc phiêu lưu của thân xác, chứ không phải của thế giới như
nó vốn là thế.