1. Không liên quan đến thời gian hay tồn tục; cái gì còn lại từ linh hồn không
phải là cái gì của nó còn được duy trì sau khi thân xác đã tiêu huỷ.
2. Ý tưởng về linh hồn ở nơi Thượng đế như vậy là ý tưởng về ý tưởng của thân
xác.
3. Linh hồn hay ý tưởng về thân xác, có một tồn tục như thân xác; nhưng ý tưởng
về linh hồn nơi Thượng đế không thuộc về tồn tục.
Đức hạnh không nằm trong sự tiết chế những thèm muốn nhục cảm.
Đức hạnh cần biết rằng linh hồn là vĩnh hằng, để không chỉ là một quy tắc sống
đạt đến sự đúng đắn bằng cách cưỡng chế những thèm muốn nhục cảm và chờ
đợi phần thưởng để đền bù những hy sinh tự nguyện. Linh hồn đức hạnh, và linh
hồn cảm nhận trực tiếp bản tính của mình, là tri thức, cũng là một. Sự mê tín
tưởng rằng chúng ta phải được cứu vớt, bởi vì trước tiên nó nghĩ đến điều ác, rồi
điều thiện như là sự phủ nhận điều ác, và lạc phúc như là phần đền bù cho sự phủ
nhận này. Phải đặt mọi chuyện trở lại đúng vị thế: suy nghĩ điều tích cực để suy
nghĩ đúng, hiện hữu toàn bộ, bởi vì đó cũng là một - đức hạnh và tự nguyện, được
cứu vớt trong khi không tin là người ta phải được cứu vớt.
MỆNH ĐỀ XLII
Lạc phúc không phải là một phần thưởng cho đức hạnh mà chính là đức hạnh; và
tình trạng hân hỷ đó không phải đạt được bằng cách tiết chế những thèm muốn
nhục cảm của chúng ta, mà trái lại chính tình trạng hân hỷ này khiến cho việc tiết
chế nhục dục thành khả thi.
CHỨNG MINH
Lạc phúc hệ tại trong tình yêu đối với Thượng đế và tình yêu này nảy sinh từ loại
tri thức thứ ba; như thế tình yêu này phải được quy về linh hồn trong tư cách nó
là chủ động (1) và tiếp theo nó chính là đức hạnh (2). Ngoài ra, linh hồn càng nở
hoa trong tình yêu thiêng liêng hay trong lạc phúc này, thì nó càng hiểu biết sâu
rộng hơn, nghĩa là quyền lực của nó trên các cảm xúc càng lớn hơn và nó càng ít
bị tác động bởi những cảm xúc xấu (3); như thế vì linh hồn nở hoa trong tình yêu