TRIẾT HỌC TÂY PHƯƠNG TỪ KHỞI THỦY ĐẾN ĐƯƠNG ĐẠI - Trang 984

Luồng gió phê bình nổi lên đây đó khắp châu Âu, dầu cho lúc đó tư tưởng Đức
còn chưa mạnh dạn cho lắm (chẳng hạn, Christian Wolf vẫn còn là môn đồ nhiệt
thành của Leibniz). Luồng gió phê bình này là dấu hiệu của một nhu cầu thay đổi:
thế giới cũ đang ngả nghiêng bởi vì những nhu cầu mới đang nảy sinh. Nền siêu
hình học truyền thống đang phai mờ dần bởi vì khoa nhân loại học phát triển phi
thường tương ứng với như cầu độc lập trí thức đang biểu lộ ngày càng gay gắt.

Tư tưởng nở rộ vào đầu thế kỷ XVIII

Cho đến giữa thế kỷ XVIII, châu Âu sống và suy nghĩ theo kiểu Anh: một đàng,
triết học ở Anh dấn mình vào những nẻo đường mới ít nhiều trung thành với
những ý tưởng của Locke; đàng khác, đời sống đạo đức và chính trị, bên kia biển
Manche**, qua một khúc quanh mới bởi vì người ta nói đến quyền con người,
quyền công dân, quyền có tự do…

Thực vậy, mô hình Anh quốc mang nét đặc trưng của ý tưởng tự do: về tôn giáo,
chủ nghĩa phóng nhiệm (le latitudinarisme) mở đường cho tôn giáo tự nhiên,
trong đó Toland (1670 - 1722), Collins (1676 - 1729), Woolston (1699 - 1733) cố
gắng chứng tỏ rằng những tín điều không phải là công việc của niềm tin mà là
của lý trí. Các tác giả này đã phác thảo - điều mà sau này Voltaire, rồi Kant sẽ
hiểu rất tuyệt - một tôn giáo chỉ trong những giới hạn của lý trí. Vấn đề đạo đức
trở thành chủ đề trung tâm của suy tư triết lý, thế chỗ những đề tài tôn giáo hay
siêu hình. Chủ nghĩa duy tình cảm kiểu Anh (le sentimentalisme anglais) đã phát
triển như thế, được minh hoạ bởi những tư tưởng gia như Shaftesbury (1671 -
1713), Hutcheson (1694 - 1746) hay Butler (1692 - 1752). Họ phục hồi phẩm giá
cho cảm tính mà chủ nghĩa duy lý của thế kỷ XVIII đã lên án cùng một trật với trí
tưởng tượng. Khi xiển dương tính thiện tự nhiên nơi con người, họ tấu khúc dạo
đầu cho nỗi buồn tiền lãng mạn của những tâm hồn đa cảm.

Nhưng triết học Anh quốc mang tính đa chiều kích: trong khi Mandeville (1670 -
1732) gợi hứng cho phong trào duy lợi (le courant utilitariste) thì thuyết liên
tưởng (l’associationisme) bành trướng và một vài tác giả nghiêng về một tri thức
trực tiếp mà người ta có thể gọi là thuyết trực giác (l’intuitionisme). Trong sự nở
rộ này, hai triết gia nổi bật lên: George Berkeley (1685 - 1753) và David Hume
(1711 -1776). Tính độc đáo của vị sau này là tán dương một thứ chủ nghĩa duy

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.