Là những triết gia hơn là nhà khoa học, những nhà bách khoa (les
Encyclopédistes) - dưới sự lãnh đạo của Diderot (1713 - 1784) và d’Alembert
(1717 - 1783) - đưa vào công trình một tinh thần phân tích và một khả năng tông
hợp khiến cho không có gì thuộc về con người mà lại xa lạ đối với họ. Đại công
trình bách khoa tập hợp hơn hai trăm tác giả, họ khám phá cuốn sách lớn của thế
giới, mỗi người với ít nhiều tính độc đáo.
Triết học về thiên nhiên tìm thấy một kiểu diễn tả khá đặc thù nơi những nhà
trọng nông (les Physiocrates). Có lẽ họ là những kinh tế gia hơn là triết gia;
nhưng việc quản trị thiên nhiên tìm cách - như những tác phẩm của Quesnay,
Dupont de Nemours, Turgot… chỉ dạy - giải thích đời sống kinh tế bằng những
điều tiên nghiệm duy tự nhiên: thiên nhiên, theo họ, là một trật tự bất khả vi phạm
và có tính quan phòng được Thượng đế tạo dựng ra; mọi định luật của thiên nhiên
đều có thể biết được với các giác quan. Vậy ta nên biết những định luật này mà
sự hiểu biết và tuân theo sẽ hứa hẹn thành công, còn mọi vi phạm chắc chắn là sẽ
bị chế tài. Như thế chủ nghĩa trọng thương (le Mercantilisme) phải lùi bước; vả
chăng sự phú cường của quốc gia chủ yếu có nền tảng trên sản xuất nông nghiệp.
Nhưng cảnh tượng ngoạn mục nhất trong nửa sau của thế kỷ XVIII đó là tất cả
những kẻ dẫn đầu trong lãnh vực triết học đều gắn bó với việc tìm hiểu con
người. Vậy là người ta chứng kiến hiện tượng được gọi là sự lên ngôi của những
khoa học nhân văn. Theo đường rẽ nước của bộ Tiểu luận về trí tuệ con người của
Locke, một cuộc nghiên cứu tâm lý rộng khắp được khai triển mà những nối dài
qua các khoa sư phạm, ngữ học, lịch sử, xã hội đạt đến tầm cỡ đáng kể. Những
bậc thầy của trào lưu này - một trào lưu nhắm đến thay thế khoa thần luận
(theodicée) cổ điển bằng khoa nhân luận (anthropodicée) - cũng lại là những tay
Bách khoa, trong số họ người ta có thể kể "bộ tộc những triết gia", với Mably, rồi
nào là Condillac, La Mettrie, d’Holbach, Helvétius. Thế là diễn ra, dưới sức đẩy
của Condillac (1714 - 1780), một khoa "vật lý học thực nghiệm về tâm hồn"
trong đó cảm giác là kinh nghiệm nguyên thuỷ và không thể nghi ngờ. Cùng lúc,
những nhà tư tưởng khác hướng đến một kiểu giải thích duy vật về con người và
những hoạt động của nó. trong một thời gian dài, người ta đã cho rằng chủ nghĩa
duy vật này phái sinh từ chủ nghĩa duy cảm giác của Condillac. Thật ra hình như
nó có những suối nguồn khác, chẳng hạn như thuyết nguyên tử của Lucrèce. Từ
cái bầu khí ưa khuynh đảo này, mà các triết gia như La Mettrie và Helvétius