Luật, đó là lý trí của loài người khi ta nói về luật chung cho mọi dân tộc trên trái
đất (2). Luật chính trị và luật dân sự của mỗi một dân tộc chỉ là sự vận dụng cụ
thể lý trí loài người nói trên vào từng trường hợp mà thôi. Nếu như luật chính trị
và luật dân sự của hai dân tộc trùng hợp với nhau thì đó là điều ngẫu nhiên lớn.
Nó phải phù hợp với tính chất và nguyên tắc của nền cai trị mà người ta mong
muốn. Luật chính trị là luật tạo ra nền cai trị. Luật dân sự là luật để duy trì nền cai
trị ấy.
Các luật ấy phải tương ứng với vật lý của đất nước, tức là với khí hậu lạnh, nóng,
hay ôn hoà, với diện tích, vị trí đất đai, với cách sống của dân chúng làm nông
nghiệp hay săn bắn, chăn nuôi. Luật phải tương ứng với trình độ tự do mà hiến
pháp có thể chấp nhận, hợp với tôn giáo trong nhân dân, số lượng nhân khẩu, với
khuynh hướng và mức tài sản, với cách buôn bán, phong tục và tập quán của
nhân dân.
Cuối cùng luật chính trị và luật dân sự có mối tương quan về nguồn gốc, về đối
tượng của người lập pháp, với trật tự các sự việc mà luật quy định. Đó là những
quan điểm mà chúng ta cần xem xét đầy đủ.
Trên đây là những điều mà tôi dự định trình bày trong tác phẩm này. Tôi sẽ xem
xét đến mọi mối quan hệ, tổng quát lại thì gọi là VẠN PHÁP TINH LÝ (l’Esprit
des lois).
MONTESQUIEU, Vạn pháp tinh lý. Quyển I, Chương 3.
1. Sự cần thiết của luật nhân định trong những xã hội loài người.
2. Luật nhân định tự nó chưa đủ: nó bao hàm một yêu cầu siêu pháp lý (une
exigence méta-juridique).
Mô hình các chính thể (la typologie des gouvernements)
Từ buổi bình minh của triết lý, tư tưởng chính trị đã phân biệt nhiều chế độ trong
việc tổ chức những Đô thị-Quốc gia hay những Cộng hoà. Platon và Aristote đã
phân biệt các chế độ quân chủ, quý tộc và dân chủ tuỳ theo chính quyền ở trong
tay một người, một nhóm người hay tất cả.