Nhưng vì người cha thực không thể chữa lành được những thương đau, thiếu
thốn, và những thương đau thiếu thốn ấy còn mãi vì chính là phận người,
nên dù đã trưởng thành, một người cha mạnh mẽ hơn, nhiều quyền năng
hơn, thương yêu bảo bọc hơn – toàn năng, toàn trí và toàn thiện – là sự cần
thiết, và từ đó con người trần gian “tạo” ra Gót – lý tưởng hoá và phóng
chiếu những thuộc tính của một người cha thành Gót - một người Cha cao
vời, vòi vọi.
Khát khao được bảo bọc, thúc đẩy từ những nhu cầu của sự sống trực tiếp đè
nặng trên mọi cá nhân, và nhất là cái chết ở cuối đường không thể nào thoát,
tất cả đã giải thích sức mạnh của tôn giáo, và sự tin tưởng – nhắm mắt, tự
lừa chính minh - lâu dài của đông đảo con người vào nó.
Tôn giáo như thế, theo cái nhìn của Freud, không chỉ là sự tự vệ, nhưng còn
là một triệu chứng của bệnh tâm thần, một thứ bệnh tâm thần tập thể, nó
“hữu ích”, vì xoa dịu đau thương của kiếp người, vì giúp người ta chịu đựng
được những khổ đau thất bại, và vực người ta đứng dậy đi cho hết con
đường đời, đến cái chết hãi hùng cuối cùng, và rồi ở đó, nó đem cho những
ý tưởng để phủ nhận cái chết, bằng cách vẽ ra một “thiên đường” đằng sau
cái chết.
Kinh nghiệm về những bất-khả-tự lực với tư cách nạn nhân đã chuyển đổi
sang tin tưởng vững chắc có một sự che chở sau cùng với tư cách tín đồ.
Một biện chứng cơ bản đã là động lực của chuyển đổi cơ cấu. Chuyển đổi từ
nương tựa phụ thuộc sang cảm giác được bảo bọc lập lại một kinh nghiệm
thơ ấu, đó là thế chỗ ông bố thực với một sản phẩm tưởng tượng. Chiều
hướng của tiến trình là một loại “hủy-thực-thành-hư” (Entfremdungsgefühl)
- de-realization của Freud là một thứ dồn nén, phủ nhận, nó “tha hóa” thực
tại vật chất đời người, chuyển sang đối lập của nó, dựng trên sự xây dựng ảo
tưởng về một “thực tại” thứ hai linh thiêng.
Sigmund Freud, đã thực sự đem Gót làm một chủ đề của giải cấu trúc siêu
hình tâm lý (metapsychological deconstruction), và đã chọn một một vị trí
vô thần. Những người theo ông, cũng tiếp tục gắn bó với những luận chứng
và tuyên bố của ông trong “Tương lai của một ảo tưởng” này, và tiếp sau
trong “Văn minh và những bất mãn từ nó”. Chủ nghĩa khoa học thực chứng