chẳng biết đó là điều gì, nhưng tôi tin chắc có thể hy vng. Vì không biết nó
là gì nên ta lại càng mong muốn có nó hơn.
Phần ý thức được trong giấc mơ ấy l việc viết lách, việc vốn choán rất nhiều
thì giờ và tâm trí tôi. Tất nhiên là tôi không ảo tưởng đến mức tin là sẽ có
ngày sách mình được in, càng không hình dung là sống nhờ việc viết lách.
Nhưng tôi vẫn muốn thử làm việc đó, dù thật phi lý, dù chỉ để sau này
không tiếc là đã không thử.
Trước khi đến Nhật, tôi chưa bao giờ nghĩ về việc đó một cách nghiêm túc.
Tôi ngờ rằng mình sẽ phải chịu sự sỉ nhục dưới dạng thư từ chối của nhà
xuất bản.
Giờ đây, chẳng còn sự sỉ nhục nào làm tôi sợ được nữa vì hàng ngày tôi đã
phải chịu cảnh đó rồi.
Tuy nhiên tất cả những chuyện đó đều không chắc chắn. Lý trí thét gào bảo
tôi chấp nhận đám cưới này: “Không những ngươi được giàu có chẳng cần
làm việc, mà hơn nữa, ngươi còn có người chồng tử tế nhất trên đời. Ngươi
chưa từng gặp chàng trai nào tốt bụng, hài hước và thú vị đến thế. Anh ấy
chỉ toàn là ưu điểm. Anh ấy yêu ngươi, còn ngươi, chắc cũng yêu anh ấy
hơn là ngươi tưởng. Từ chối cưới Rinri chẳng khác nào tự sát.”
Tôi không có cách nào quyết định được. Tôi không sao nói đồng ý được.
Cũng như lúc còn ở đảo Sado, tôi cứ khất lần khất hoài.
Rinri thường xuyên nhắc lại lời cầu hôn. Tôi thì lúc nào cũng thoái thác.
Tuy vẫn tỏ ra bình thản, nhưng tôi thấy ngượng chết đi được. Tôi cảm thấy
như mình làm tất cả mọi người đau khổ, mà trước hết là bản thân tôi.
Ở nơi làm việc thì chẳng khác gì địa ngục. Rinri đối xử với tôi dịu dàng, mà
tôi lại chẳng xứng với sự dịu dàng ấy. Đôi khi tôi nghĩ nỗi thống khổ của
mình ở nơi làm việc chính là hình phạt thích đáng cho sự vô ơn của tôi với