chuyện. Bọn độc ác truy đuổi những người tử tế đang cưỡi ngựa chạy trốn.
Bọn độc ác cũng cưỡi ngựa. Ai cũng mong mình phi nhanh nhất. Đôi khi
nhạc nói những người tốt thoát, nhưng họ đã nhầm, bọn người độc ác bày
trò khiến họ tưởng mình đã thoát để bắt họ dễ hơn. Rồi những người tốt
cũng hiểu mưu mẹo đó, nhưng đã muộn, liệu họ có thoát được hiểm nguy
không? Họ phi ngựa đến đứt cả hơi, rạp mình trên lưng ngựa, cuộc hành
trình khiến cả người lẫn ngựa đều kiệt sức, tôi đứng về phía họ, tôi không
biết mình tốt bụng hay độc ác, nhưng chắc chắn tôi thuộc về phe những
người chạy trốn, tôi có tâm hồn của con thú bị săn đuổi, tim tôi đập như
điên, ô kìa, vực thẳm, liệu lũ ngựa có vượt qua được vực sâu như thế không
nhỉ, phải vượt qua thôi, nếu không sẽ rơi vào tay chúng mất, mắt mở to vì
sợ hãi, tôi nghe tiếng ngựa chồm lên và chạm vó đúng sát mép vực phía bên
kia, thoát rồi, bọn người độc ác không nhảy sang, chúng không dũng cảm
bằng họ, vì chúng không phải chạy trốn, ham muốn bắt người không mạnh
bằng nỗi sợ bị tóm, đó là lý do bản Hungarian Rhapsody của Liszt kết thúc
bằng khúc khải hoàn.
Tôi gọi máy bay là Pégase
. Nhạc của Liszt nhân niềm vui của tôi lên
bội phần. Tôi hai mươi ba tuổi và vẫn chưa tìm thấy điều mình tìm kiếm. Vì
thế mà tôi thấy thích cuộc sống. Thật tốt khi hai mươi ba tuổi mà vẫn chưa
tìm thấy con đường của mình.
Ngày mười một tháng Một năm 1991, tôi hạ cánh xuống sân bay Zaventem.
Tôi nhảy vào vòng tay chị Juliette, chị đang đợi tôi. Sau khi cả hai chị em
đã hí, sủa, gầm, kêu, ré, hú, ăng ẳng chán chê, chị tôi hỏi:
- Em không đi nữa, phải không?
- Em ở lại! tôi nói để dẹp bỏ ngay mọi mập mờ của câu hỏi kiểu phủ định.
Juliette chở tôi về nhà chúng tôi, ở Bruxelles. Nước Bỉ là thế này đây. Tôi
thấy mủi lòng trước bầu trời xám nặng trĩu, trước sự gần gũi giữa các nơi
chốn, trước những bà già co ro trong áo choàng và đeo túi gặp trên tàu điện.