điều đó, bèn giở ngay thói thông thái rởm để đặt cô ta lại đúng vị trí của
mình:
- I see
. Vậy thì điều đó tương đương với khái niệm otium trong tiếng
Latin.
- Tiếng Latin à? Amy sững sờ nhắc lại. Khoái chí vì phản ứng của cô ta, tôi
so sánh otium với tiếng Hy Lạp cổ, rồi hàng loạt từ nguyên ngôn ngữ Ấn-
Âu. Phải cho cái cô quê ở Portland này biết thế nào là nhà ngôn ngữ học.
Đến khi đã ăn miếng trả miếng được cô ta thì tôi yên lặng và bắt đầu chơi
theo kiểu ở nước Mặt Trời Mọc. Tôi đứng nhìn việc chuẩn bị bột làm bánh
xèo, rồi xem rán món okonomiyaki. Mùi vị của bắp cải, tôm xen lẫn gừng
hòa quyện vào nhau, lách tách trên bếp đưa tôi trở lại mười sáu năm về
trước, hồi cô bảo mẫu Nishio dịu dàng kỳ công làm cho tôi món ăn tuyệt
vời mà từ bấy đến nay tôi chưa bao giờ được ăn lại này.
Căn hộ của Hara nhỏ đến độ không một chi tiết nào có thể lọt qua mắt tôi.
Rinri mở hộp tương Hiroshima theo vệt chấm chấm trên bìa rồi đặt nó vào
giữa chiếc bàn thấp. “What’s that?”
Amy rên rỉ. Tôi vơ lấy cái hộp giấy
và hít hà trong cơn nhớ nhung mùi hương của mận chát, của dấm, của rượu
sakê và nước tương ấy. Trông tôi như kẻ nghiện cái hộp tương.
Khi nhận đĩa bánh xèo nhồi nhân là tôi mất ngay lớp vỏ bọc văn minh, tôi
rưới nước tương lên và đánh chén luôn chẳng đợi chờ ai.
Không một quán ăn Nhật nào trên thế giới có được món ăn dân dã tuyệt
diệu này, nó vừa đơn giản lại vừa thanh nhã, vừa rất ngây ngô song cũng rất
cầu kỳ. Hồi đó, tôi năm tuổi, lúc nào cũng bám váy cô Nishio và tôi gào thét
đến muốn vỡ tim, lưỡi như tê dại đi. Tôi đánh chén đĩa okonomiyaki, mắt
mơ màng, miệng rên lên thích thú.
Khi ăn hết đĩa của mình, tôi thấy những người khác đang nhìn tôi với vẻ