Sống ở một thành phố như vậy hẳn kích thích sợi sống trong họ. Kết quả là
tạo ra cảm giác lạc quan, cảm giác đó gợi lại không khí của cái thời mà
người ta còn tin vào tương lai.
Nhận xét đó thấm sâu vào tim tôi. Ngay lập tức tôi thấy cảm động vì thành
phố có bầu không khí hạnh phúc dũng cảm đến nao lòng này.
Bảo tàng Bom khiến tôi sững sờ. Dù biết chuyện gì đã xảy ra nhưng những
chi tiết vẫn vượt xa trí tưởng tượng của tôi. Những thứ được trưng bày ở đó
mang lại hiệu quả gần như là thi ca: người ta kể về một đoàn tàu, vào ngày
6 tháng Tám năm 1945, đi dọc theo bờ biển về hướng Hiroshima. Trong số
các hành khách có những người đi làm sáng. Hành khách uể oải nhìn thành
phố qua cửa sổ tàu. Sau đó, tàu đi vào đường hầm, và khi tàu chui ra, những
người lao động nhận ra không còn Hiroshima nữa.
Khi đi dạo trên các con phố của thành phố tỉnh lẻ này, tôi nghĩ rằng phẩm
giá Nhật tìm thấy ở đây minh chứng rạng rỡ nhất. Chẳng có gì, tuyệt nhiên
không có gì gợi nhớ đến một thành phố từng chịu thảm họa. Tôi nghĩ rằng
tại bất cứ đất nước nào, một điều khủng khiếp như vậy cũng sẽ được tận
dụng triệt để. Vốn liếng để kết tội, kho tàng quốc gia của biết bao dân tộc,
không tồn tại ở Hiroshima.
Trong công viên Hòa bình, những cặp tình nhân hôn nhau trên ghế đá. Tôi
sực nhớ ra mình không chỉ có một mình và tuân theo tục lệ địa phương. Sau
đó, Rinri lôi trong túi ra cuốn sách của Marguerite Duras. Tôi đã quên mất
cuốn sách. Anh thì chỉ nghĩ đến nó. Anh đọc to cho tôi nghe, từ đầu đến
cuối, cuốn Hiroshima tình yêu của tôi.
Tôi có cảm giác như anh đang đọc bản cáo trạng của tôi vậy, và rằng tôi
phải hiểu mình đáng trách vì điều gì. Cuốn truyện còn dài mà anh thì lại đọc
chậm vì ảnh hưởng giọng Nhật nên tôi có thời gian để chuẩn bị lời bào
chữa. Khó khăn nhất là phải cố nhịn cười khi anh đọc, bực bội vì không