thuở nhỏ, người ta đã dạy cho con trai cũng như con gái cái "nghệ
thuật giữ mình" nghĩa là giữ từ cách đi đứng cho đến cách kiềm
chế lòng dục lại làm cho mình tự chủ mình.
Những cô geisha, vì vậy, lúc mới bước vào đời đã học được cách
cầm nước mắt, biết giữ để không tức giận, không sợ hãi.
Paul Louis Couchoud kể chuyện rằng chính mắt ông, hồi bắt
đầu cuộc chiến tranh Nga – Nhật, ông đã được mục kích có tới hơn
hai mươi bận những quân lính Phù Tang từ biệt đất nước để ra nơi
trận địa. Bao giờ cũng vẫn một lối nghi tiết ấy: những cô geisha –
phần nhiều có chồng hay nhân tình ở trong số quân lính đó – ăn
bận thật diêm dúa: áo lụa sa tanh mỏng thêu hoa sặc sỡ như một công
viên Nhật; dây lưng (obi) vàng lấp lánh một thứ lụa thiên thanh, hội
họp nhau ở các nhà ga nhỏ để dưng chén trà cuối cùng cho quân
lính: các cô geisha đi vào các hàng quân, đầu cúi, nụ cười không lúc
nào quên nở trên môi cả. Họ không hôn nhau mà cũng chẳng ôm lấy
nhau như ở các đô thị lớn trên thế giới; họ cúi rạp xuống chào
"những kẻ sắp đi" và cười, không một giọt nước mắt hay một câu
than vãn. Không phải là họ không đau đớn ở trong lòng đâu: các cô
geisha cố cầm nước mắt đấy, theo như một câu đồng dao Nhật
"chỉ có cái gối mới có thể biết nước mắt người ta được".
Những lúc ôm gối mà đau đớn một mình như thế, các cô hay gảy
đàn samishen vì trong khoa giáo dục của các cô nhận được, món âm
nhạc là một món cần thiết nhất, cho nên đã nói đến geisha là
người ta nghĩ đến đàn samishen. Ngoài những món ấy ra, người
geisha lại còn phải học cả những lối uốn éo ru lòng người, nói tóm
lại là những cách "làm ái tình" như ta học một cuốn mẹo về giác
quan. Những cô này càng khéo bao nhiêu càng giỏi bao nhiêu, càng
kiếm ra tiền bao nhiêu thì càng được chủ chiều chuộng bấy
nhiêu, sắm sửa cho nhiều thứ và rút ngắn cho cái thời kỳ trong