nhắm lúc vô ý mà bắn trộm ta, ta cũng vẫn cho uống nước như
thường; ta là vua nước Trần sang đánh Thái, không tuyệt diệt nhân
quốc, trái lại, lại kính trọng nền dấu tổ tiên người Thái, lập con
cháu nước Thái lên làm vua và tự bỏ ngân quỹ ra để sửa sang tôn
miếu; ta không thể làm Lã Mông nhưng chỉ có thể là Quan Vũ đánh
Hoàng Trung ngã ngựa nhất định không giết, cho về thay ngựa
khác rồi lại ra đánh lại. "Hưng diệt, kế tuyệt". Cái chính sách của
các bậc thánh vương Hạ, Thương, Chu lấy việc làm hưng các nước đã
bị diệt và làm sống lại những dấu vết các nước đã bị tuyệt, từ xưa
vẫn là phương châm sống mạnh của tổ tiên người Việt Nam. Được
thừa hưởng một gia sản tinh thần như thế, người Việt Nam năm
1945 không bao giờ nghĩ chuyện trả thù người Pháp. Không, không,
trái lại! Lấy một tấm lòng bác ái thành thực mà ăn ở với bất cứ ai
ai, chúng ta thương những kẻ tàn ác đã giết thần xác và tinh thần
dân ta, chúng ta ghi nhớ cái thù Pháp-lan-tây đô hộ nhưng chúng ta
vẫn để cho họ, đến bây giờ vẫn cứ được phép ăn gạo của ta, hít thở
một không khí với ta và đi trên một con đường với ta.
Một mụ già, một ả đầm đẻ rơi, một đứa con tây bị xe cán, chúng
ta chạy lại đỡ dậy và an ủi, như chưa bao giờ giữa Pháp và Nam có xảy
ra chuyện gì. Hơn thế nữa. Thấy một tên Pháp cụt chân vì lửa đạn,
bê cái mặt xanh rớt đi cùng đường để ăn xin, có người mình lại còn gọi
lại cho tiền; một con điếm mắt xanh, trước chửi người Nam là
"mọi rợ", bây giờ đứng đầu đường xó chợ bán cái coóc-xê cuối cùng
để lấy tiền ăn, người mình cũng bỏ tiền ra để giúp hơn là để mua;
và thành phố hiện giờ còn bao nhiêu người Pháp ngửa tay đi ăn mày
mà người mình vẫn cho cơm ăn áo mặc, như đã cho những người
không may khác cùng một giống da vàng máu đỏ?
Đứng trước một tấm lòng vĩ đại như vậy, một người Pháp biết
nghĩ có lẽ cảm động lắm và tưởng tượng như muôn kiếp ngàn đời
cũng không thể nào ăn ở cho phu.