thủng của chiếc lá sen tàn, thấy bóng người vẫn qua lại trên cầu. Bụng đỡ
run, Nhật Lễ đã nhận ra hầu hết những người trong tôn thất và cả một số
quan quân đi lùng bắt mình, nhưng các quân sĩ thì Nhật Lễ không nhận ra
quân của tướng nào, phủ nào. Lúc này nhà vua chỉ mong thoát thân chứ
chưa dám nghĩ tới việc trả thù.
Trăng đã lên tới đỉnh đầu. Bầu trời cao thăm thẳm. ánh trăng làm nhạt
dần những đốm lửa đuốc. Những người đi tìm bắt nhà vua đã tản đi nhiều
phía. Quân nổi dậy không án lại trong các cung thất để chờ bắt vua. Họ
cũng không làm việc gì khác hơn, như phế truất vua cũ, lập vua mới, mà họ
ai về phủ nấy, tựa như một cuộc nổi loạn bất thành. Điều lạ là thái tể
Nguyên Trác vẫn an nhiên trở lại dinh phủ, và ông cũng không hướng cho
con, cho cháu được đối sách gì phòng khi Nhật Lễ trả thù.
Nhật Lễ vẫn đắm mình trong lạch suối Đào Nguyên, nước lạnh cứ thấm
dần vào người khiến Nhật Lễ nổi hết da gà. Tuy không thấy một bóng
người nào qua lại, nhưng Lễ vẫn không dám trở về vì sợ có quân phục. Mãi
quá canh tư, cảnh trời đêm tĩnh lặng đến mơ hồ, Nhật Lễ đoán chừng cơn
nguy biến đã qua, mới liều nhoai vào bờ và men theo các đường quanh, hốc
tối mò dần về cung. Vừa thay quần áo, ăn xong bát cháo gà mà Nhật Lễ cho
rằng chưa bao giờ ông ăn một bữa cháo ngon như vậy. Ngay lúc ấy nhà vua
gọi ngự thư hỏa lại phán:
- Ta thăng thưởng nữa cho ngươi, tước thêm hai tư.
Nhật Lễ cũng phái người đi tìm gặp Lưu thị, Dương Khương, Trần Nhật
Hạch, Trần Ngô Lang cùng đám tay chân thân tín. Quân hầu về báo, các
người ấy không một ai bị bắt, bị giết và quân nổi loạn cũng biến mất tăm
rồi.
Nhật Lễ ở phía ngoài đại sảnh, lưng đeo bảo kiếm, tay thủ đoản đao,
mặt hằm hằm bước ra giậm chân thình thịch xuống thềm điện la hét:
- May mà chúng chưa giết được ta để còn nhìn thấy mặt các ông. Ta có
bạc đãi gì các người mà sớm phụ nhau thế. Trong lúc giặc lùng giết ta thì
các ông vẫn còn an nhiên ngủ say như chết. Cả mẹ ta nữa, bà cũng say sưa
ôm ấp mấy đứa tiểu yêu phải không? Ta sẽ giết hết các người.