Vai khoác tay nải, lưng dắt đoản đao, Hán Anh ra mắt quan Khâm thiên
giám Trần Nguyên Đán, với phong độ như một hiệp khách, lại có vẻ như
một thích khách.
Nguyên Đán vốn tinh đời, ông không câu nệ vào vẻ ngoài của Hán Anh,
ngược lại, ông thấy qua đôi mắt sáng như phát hào quang kia, cặp lông mày
xếch như mắt phượng, gương mặt chữ điền vuông vức và vầng trán cao
rộng bị che lấp bởi vành khăn kia, đủ nói con người này có đầu óc mẫn tiệp,
có lòng dũng lược khác thường. Chàng vừa thi lễ xong, chưa kịp nói,
Nguyên Đán đã hỏi:
- Tráng sĩ ở đâu lạc tới sơn ấp? Chẳng hay tráng sĩ có điều gì muốn chỉ
bảo ta chăng?
Bị đẩy vào tình thế khó xử, Hán Anh nhìn lại gương mặt thánh thiện của
quan Khâm thiên giám một lần nữa, để xem mình có bị nhầm lẫn không.
Đoạn chàng nói:
- Bẩm quan,- giọng chàng trầm sâu có sức lan tỏa như âm thanh của một
loài kim khí - Tiểu sinh ra mắt đại quan thật là đường đột, dám xin đại quan
tha tội.
- Tráng sĩ có lòng ghé thăm sơn ấp là quý rồi, chỉ xin tráng sĩ cho biết
quý danh.- Nguyên Đán mỉm cười. Và ông như chợt nhớ lại một điều gì.
Ông nhắm mắt và cố hình dung xem gương mặt kia ông đã từng gặp ở đâu
đó.
Hán Anh kể rành rõ lai lịch của mình, và vì sao lại tìm đến để xin được
theo hầu. Nghe xong, Nguyên Đán cảm động nói:
- Thì ra công tử là... ta biết cụ thân sinh ra công tử. Cũng là chỗ giao du
trong làng văn vật đất Thăng Long cả. Phải, ta quý cụ thân sinh công tử là
người trọng nghĩa khí; thơ văn tao nhã; bọn ta theo sao được. Công tử từ
cửa đó tới đây là phúc cho ta lắm.
Hán Anh vái đáp lễ tới hai ba lần.
Trần Nguyên Đán sai quản gia tiếp nhận Hán Anh vào làm môn khách.
Thu xếp nơi ở và phòng văn cho Hán Anh xong, Nguyên Đán sai dọn tiệc
rượu.
Rượu vừa rót xong, Nguyên Đán hỏi: