tửu”. Con đường càng dẫn lên cao thì tầm mắt càng mở rộng. Bầu trời bao
la, rừng núi điệp trùng. "Thanh hư động" có bàn tay con người cải hóa, nom
đẹp như một khuôn tranh. Loáng thoáng đó đây dựng lên những mái đình
lục giác, bát giác, cột
gỗ, lợp tranh nom vừa mộc mạc vừa thanh tao. Đi hết "Đào hoa lộ mỹ
tửu” thì tiếp đến "Mai hoa lộ". Những cây mai khẳng khiu thân cành nhuốm
màu nâu mốc, tưởng như nó từ khe đá mọc lên. Vào mùa sương móc, hai
con lộ Đào, Mai này phô sắc hoa thắm đỏ, và trắng tuyết, làm cho cả vùng
"Thanh hư động" rực đỏ, và trắng phau khiến "Thanh hư động" đượm vẻ
thanh tao, như là nơi tu tĩnh của các bậc tiên thánh. Ấy là chưa kể đến
những vạt kim cúc, phơi màu vàng ánh như tơ tằm vào mỗi độ thu sang.
"Mai hoa lộ" dẫn thẳng lên đỉnh động. Tại đây có ngôi 'Phương đình".
Nghệ tông vừa ghé vào đã thấy dọn sẵn một bầu rượu với hai chiếc chén
ngọc, đặt trên mặt bàn chân quì cùng bốn chiếc ghế có lót đệm gấm. Ngôi
"Phương đình" có dáng vóc vững chãi, lợp ngói mũi hài men ngọc lưu ly.
Tại bốn cây cột treo bốn tấm liễn nét chữ bay bướm như vẽ. Nghệ tông
nhẩm đọc:
Qui khứ lai hề
Thinh tức giao dĩ tuyệt du
Thế dữ ngã nhi tương di
Phục giả ngôn hề yên cầu?
Ngài thầm dịch:
Về đi thôi!
Hãy đoạn tuyệt giao du.
Đời đã cùng ta lìa bỏ nhau.
Còn dùng lời suông hề! cầu chi nữa ?
( Đây là mấy câu trích trong bài "Qui khứ lai từ" (Bài từ về đi thôi!) của
Đào Tiềm. Đào Tiềm người đất Tầm Dương đời Tấn (279- 420), tự là Đào
Uyên Minh, hiệu là Ngũ Liễu tiên sinh. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch,
phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến. Đào Tiềm than
rằng: "Tại sao ta lại phải vì 5 đấu gạo mà gẫy lưng?" Bèn trả ấn từ quan. Và
bài "Qui khứ lai từ" được viết ra từ đấy).