Rượu được vài tuần, tiên sinh ve vuốt chòm râu bạc, trầm ngâm ngắm
sắc diện Trần Nguyên Đán. Vầng trán cao, lông mày rậm hơi xếch, mắt to
sáng như có hào quang. Tam đình, ngũ nhạc đều hài hòa nở nang. Khí sắc
vững vượng. Tiên sinh tự nghĩ: "Con người này thông tuệ, phách lực, nếu
gặp thời đắc dụng, sẽ là bậc tài trí hơn đời. Người này mà có quyền lực lớn
trong tay sẽ làm lợi dân, ích nước. Đức tốt lắm. Tốt lắm".
Đoạn tiên sinh mỉm cười hỏi:
- Tôi nghe đồn quan huynh cũng có cái chí đi ở ẩn, có phải vậy chăng?
Tiên sinh đoán trúng ý của Nguyên Đán, ông đặt chén rượu xuống mâm,
nói với tất cả sự cởi mở:
- Bẩm, tôi cũng định nối gót tiên sinh.
Chu An cười lớn:
- Hóa ra thiên hạ coi tôi là kẻ đi ở ẩn. Cả quan huynh cũng nghĩ thế. Ha
ha!... Thiên hạ nhầm cả. Nói thực với quan huynh, tôi đi đây là để lánh nạn.
Mà việc này tôi có dự liệu từ lâu nên mới chọn nơi đây dựng một cái thảo
lư. Cũng như là chiếc quan tài sống của mình chứ hay ho gì đâu.
Trần Nguyên Đán kinh ngạc:
- Thưa tiên sinh, Nguyên Đán tôi thực không hiểu ý ngài.
- Chuyện thật là đơn giản. Dạy Dụ tông nhiều năm, tôi biết tâm tính nhà
vua. Nên đã cố khuyên giải dẫn dụ. Phần nhiều tôi đem gương lớn các đời
ra để giảng. Kinh Xuân-thu của đức Khổng Tử tôi giảng kỹ lắm. Bởi trong
đó có biết bao tấm gương tốt và gương xấu. Xem ra Dụ tông không hấp thụ
được, hẳn nó không hợp với tâm chất nhà vua. Tôi lại đem các điều băn
khoăn trình lên thượng hoàng Minh tông để ngài nghiêm huấn quan gia.
Nếu như quan gia không cải đổi được cái tâm, tôi còn mong thượng hoàng
sẽ nhận ra điều đó để mà lập người khác. Nhưng chẳng ích gì. Kíp tới khi
thượng hoàng băng, với niên hiệu Đại trị của mình, Dụ tông tự đưa kỷ
cương triều chính vào con đường rối nát, do một lũ gian thần thân tín xướng
xuất và thúc ép. Thấy chướng quá và giận quá vì các việc nhà vua làm đều
có quan hệ đến vận mệnh của dân, của nước, tôi lạm dụng cái thiên chức
của một ông thầy, khuyên nhà vua sửa sang việc chính trị, xa lánh hoặc phế
bỏ bọn gian nịnh, bè đảng. Nhà vua không nghe. Tôi dâng sớ xin chém hết