- Nói VO.NG TƢỞNG, là giả lập nhiều danh để hiển thị các tƣớng, do vọng
tƣởng suy nghĩ, vọng lập các tên gọi : Voi, ngựa, xe cộ, nam nữ v.v... gọi là
Vọng Tƣởng.
- Nói CHÁNH TRÍ, là tìm danh tƣớng bất khả đắc, cũng nhƣ khách đi
đƣờng chẳng có sở trụ. Các thứ phân biệt chẳng sanh, chẳng đoạn chẳng
thƣờng, chẳng đọa nơi tất cả ngoại đạo Thanh Văn Duyên Giác, ấy gọi là
Chánh Trí.
- Lại nữa, Đại Huệ! Nói NHƢ NHƢ, là Đại Bồ Tát dùng chánh trí này chẳng
lập danh tƣớng, cũng chẳng phải không lập danh tƣớng, lìa bỏ kiến lập với
phủ định, và nhị kiến đối đãi thì danh tƣớng chẳng sanh, gọi là Nhƣ Nhƣ.
- Đại Huệ! Đại Bồ Tát trụ nơi Nhƣ Nhƣ rồi, đắc cảnh giới Vô Sở Hữu,
chứng đắc Bồ Tát Hoan Hỷ Địa. Đắc Bồ Tát Hoan Hỷ Địa rồi, lìa hẳn ác
kiến cuả tất cả ngoại đạo, chánh thức trụ bậc xuất thế gian, pháp tƣớng thành
thục, phân biệt tƣớng huyễn của tất cả pháp. Tự giác pháp tƣớng lìa các
vọng tƣởng, thấy tánh của các tƣớng khác biệt, thứ lớp tiến lên Pháp Vân
Địa. Giữa lúc đó sức Tam muội thần thông đƣợc mở mang khắp nơi, chứng
đắc Nhƣ Lai Địa. Đắc Nhƣ Lai Địa rồi, viên chiếu hiển thị đủ thứ biến hóa
để thành tựu cho chúng sanh mà chẳng trụ nơi chúng sanh, nhƣ bóng trăng
trong nƣớc, nên cứu cánh đầy đủ Thập Vô Tận Cú, vì mỗi mỗi chúng sanh
phân biệt thuyết pháp. Pháp thân lìa ý sở tác này, gọi là "Bồ Tát Nhập Nhƣ
Nhƣ Sở Đắc".
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
- Thế Tôn! Thế nào? Là ba thứ tự tánh gom vào năm pháp ƣ? Hay là mỗi
mỗi có tự tƣớng ƣ?
Phật bảo Đại Huệ :
- Ba thứ tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã thảy đều gom vào năm pháp.
Đại Huệ! Nói DANH và TƢỚNG là vọng tƣởng tự tánh. Đại Huệ! Nếu dựa
theo vọng tƣởng sanh tâm, tâm pháp, gọi là đồng thời sanh, nhƣ ánh sáng
mặt trời đồng thời chiếu soi mỗi mỗi tƣớng sai biệt. Do thức thứ sáu phân
biệt, thức thứ bảy chấp trì duyên khởi lẫn nhau, gọi là Duyên Khởi Tự Tánh.
Đại Huệ! Nói CHÁNH TRÍ NHƢ NHƢ là tánh chẳng thể hoại, gọi là
THÀNH TỰ TÁNH.