Sơ Địa đến Thập Địa.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Phật thuyết duyên khởi tức là thuyến nhân duyên sanh, chẳng
thuyết đạo do tự tâm vọng tƣởng phân biệt mà sanh. Thế Tôn! Ngoại đạo
cũng thuyết nhân duyên, nói vi trần sanh khởi lúc ban sơ là nhớ tánh thắng
tự tại của thần ngã, các tánh khác sanh khởi cũng nhƣ thế. Nhƣng Thế Tôn
nói nhân duyên hay sanh ra các tánh, là dùng Hữu Gián Tất Đàn hoặc Vô
Gián Tất Đàn ( lý thành tựu ) để giáo hóa chúng sanh.
- Thế Tôn! Ngoại đạo cũng thuyết Hữu Sanh và Vô Hữu Sanh, Thế Tôn
cũng thuyết Vô Hữu Sanh, sanh rồi diệt. Nhƣ Thế Tôn sở thuyết Thập Nhị
Nhân Duyên, từ vô minh duyên hành cho đến lão tử, ấy là Vô Nhân Thuyết
của Thế Tôn, chẳng phải hữu nhân thuyết. Thế Tôn kiến lập cái thuyết nhƣ
vậy, nói " có cái này nên có cái kia ", chẳng phải kiến lập cái nghĩa tiệm
sanh. Cái thuyết " Quán tánh thắng " của ngoại đạo, chẳng phải cái thuyết
của Nhƣ Lai vậy? Tại sao? Vì ngoại đạo thuyết cái nhân chẳng từ duyên
sanh mà có sở sanh. Nhƣng Thế Tôn thì thuyết quán nhân có quả, quán quả
có nhân, nói nhân duyên tạp loạn nhƣ vậy, thế thì duyên nhau đến vô cùng
tận vậy.
Phật bảo Đại Huệ :
- Ta chẳng thuyết Vô Nhân và thuyết Nhân Duyên tạp loạn, cái này có nên
cái kia có, và năng nhiếp sở nhiếp đều phi tánh, là giác đƣợc tự tâm hiện
lƣợng. Đại Huệ! Nếu chấp trƣớc năng nhiếp sở nhiếp thì chẳng giác đƣợc tự
tâm hiện lƣợng và ngoài cảnh giới tánh phi tánh, họ có cái lỗi nhƣ thế, chẳng
phải cái thuyết duyên khởi của ta. Ta thƣờng thuyết do nhân duyên hoà hợp
mà sanh các pháp, chẳng phải Vô Nhân Sanh.
Đại Huệ lại bạch Phật rằng :
- Thế Tôn! Chẳng phải ngôn thuyết hữu tánh là có tất cả tánh ƣ? Thế Tôn!
Nếu vô tánh thì ngôn thuyết chẳng sanh, cho nên ngôn thuyết hữu tánh,
nghĩa là có tất cả tánh.
Phật bảo Đại Huệ :
- Vô tánh mà có ngôn thuyết, nhƣ lông rùa sừng thỏ, là hiện ngôn thuyết của
thế gian. Đại Huệ! Chẳng phải tánh, chỉ là ngôn thuyết mà thôi. Nhƣ lời