Như trên, tr. 86-87.
Như trên, tr. 90.
Ireland dẫn đầu với 83% số hộ gia đình sở hữu nhà của mình, tiếp
theo sau là Úc và Anh (đều là 69%), Canada (67%) và Mỹ (66%). Con số
này với Nhật là 60%, Pháp là 54% và Đức là 43%. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng các số liệu này là của năm 2000. Kể từ đó đến nay, con số này với Mỹ
đã tăng lên trên 68%. Cũng cần lưu ý rằng có sự dao động theo khu vực
những người ở miền Trung Tây và miền Nam có tỷ lệ sở hữu nhà riêng cao
hơn một cách đáng kể (72%) so với những người sống ở miền Tây và Đông
Bắc. Nhà cửa có giá phù hợp với khả năng mua hơn ở Trung Tây và miền
Nam. 78% người dân ở Tây Virginia sở hữu nhà đang sống trong khi chỉ có
46% người dân New York được như vậy. (TG)
Robert J. Shiller, "Understanding Recent Trends in House Prices
and Home Ownership" (Tìm hiểu những xu hướng mới trong giá nhà và sở
hữu nhà), báo cáo trình bày tại Hội thảo Jackson Hole tại Kansas của Ngân
hàng Dự trữ Liên bang (8/2007).
http://www.canongate.net/WhoOwnsBritam/DoTheMathsOnLandOwnershi
p
David Cannadine, Aspects of Aristocracy: Grandeur and Decline
in Modern Britain (Các khía cạnh của chế độ quý tộc: vẻ huy hoàng và sự
suy tàn ở Anh quốc hiện đại) (New Haven, 1994), tr. 170.
“Thưa cô Demolines, cuộc sống luôn luôn bất định.” “ông đang
nói đùa, tôi biết. Song liệu ông có thực sự cảm thấy là bây giờ những đồng
tiền ở khu City rất bấp bênh? Chúng đến rồi đi rất nhanh.” “Nếu đã đi, tôi
nghĩ tiền nào cũng vậy,” Johnny nói. “Nhưng không phải là với đất đai,
hoặc các quỹ. Mẹ cô đã bố trí từng shilling vào cho vay thế chấp hạng nhất
đổi với đất đai với lãi suất 4%. Điều đó khiến ai cũng cảm thấy thật an toàn!
Đất đai không thể trốn đi đâu được.” (Chương 25) (TG)
Tôi biết ơn Gregory Clark vì những số liệu này.
Frederick B. Heath, "The Grenvilles, in the Nineteenth Century:
The Emergence of Commercial Affiliations" (Nhà Grenville, thế kỷ 19: Sự