Thành Ba Đông của đất Thục: bấy giờ nước Thục đã thuộc vào nước
Tấn.
Trường Sa Hoàn Vương: tức Tôn Sách, được Tôn Quyền truy tặng
thụy là Trường Sa Hoàn Vương.
Tấn Văn Đế: tức Tư Mã Chiêu, được Tấn Vũ Đế phong làm Văn Đế,
sử sách lại thường gọi là Tư Mã Văn Vương, Tấn Văn Vương.
Bông hoa rực rỡ, được vẻ tươi tốt: câu này có trong kinh Thi, ý nói
sứ thần được nhà vua sai đi giúp dân ở các địa phương.
Ngũ tài: ý chỉ năm đức tính, theo Lục thao - Long thao thì ngũ tài là
dũng, trí, nhân, tín, trung.
Chữ tùng như chữ ‘thập’ ghép với chữ ‘bát’ và chữ ‘công’: chữ tùng
như chữ thập ghép với chữ bát và chữ công.
Quy Mệnh Hầu: tức Tôn Hạo, sau khi hàng, được nhà Tấn phong
làm Quy Mệnh Hầu.
Sao Huỳnh hoặc: sao Huỳnh hoặc là một tên gọi khác của sao Hỏa.
‘Tam công trừ, Tư Mã tới’: ‘Tam công’ là bà họ Tào, Lưu, Tôn của
ba nhà Ngụy, Thục Ngô. Tư Mã là họ Tư Mã của nhà Tấn. Ba nhà Ngụy,
Thục, Ngô bị trừ thì nhà Tấn nổi lên thay vậy.
Quẻ ‘đồng nhân’ và quẻ ‘di’: Quẻ ‘đồng nhân’ là quẻ thứ mười ba,
quẻ ‘di’ là quẻ thứ hai mươi bảy trong sáu mươi tư quẻ của kinh Dịch.
Nhưng được nhận chiếu không giết chết, lại còn được ban cho ân
sủng, đấy há chẳng phải là ân rất lớn, đức rất dày sao!: câu này có ý khen
ngợi ân đức của Tấn, ý nói tội Tôn Hạo đáng giết chết nhưng nhà Tấn tha
cho lại còn ban ân sủng, như vậy là ‘ân rất lớn, đức rất dày’ vậy.
Càn khôn: theo kinh Dịch thì càn là trời, khôn là đất, do đó người ta
vẫn gọi trời đất là càn khôn.
Thang, Vũ vung rìu, không bị chê cười là không kính thuận; Hán Cao
Tổ vung kiếm mà không bị bàn tán là làm mất khí tiết: ý nói vua Thang là
bầy tôi của nhà Hạ mà nổi dậy diệt nhà Hạ lập nhà Ân, vua Vũ Vương là