Charles I: Vua nước Anh, sau bị Cromwell, nhà dân chủ Anh hạ lệnh
chặt đầu vì tội liên kết với quân Pháp chống lại quốc hội Anh, việc đó có
được nói đến trong tập “Hai Mươi Năm Sau” tiếp nối truyện này.
Anne Autriche: Con gái vua Philippe III Tây Ban Nha, vợ Louis
XIII. Nhiếp chính khi con bà là Louis XIV lên ngôi còn nhỏ, cùng với Thủ
Tướng Mazarine mà vai trò giống như Giáo Chủ Richelieu thời vua cha
Louis XIII.
Tên núi ở Macedonia để tưởng nhớ đến các tu viện.
Gens de robe et gens d’épée (tiếng Anh Civilians and soldiers):
Nghĩa là phái dân sự và phái quân nhân. Tiếng Pháp: Noblesse de robe:
Quý tộc cung đình. Noblesse dépée: Quý tộc kiếm cung. De robe: Có nghĩa
làm nghề pháp lý, nên chúng tôi tạm dịch Gens de robe: Pháp quan.
Samson: Thẩm phán của dân Hébreux, có thể dùng chùy đập chết
một lúc hàng nghìn bọn Philistin, sức khỏe nằm ngay trong bộ tóc, yêu
Dalila, bị cô gái điếm này phản bội cắt mất bộ tóc ấy và trao nộp Samson
cho bọn Philistin. Trong một cuộc lễ tôn giáo ở Đền thờ Dagon, tại chỗ
người Philistin. Ông đã lật đổ những cột đền và tự chôn vùi mình.
Bọn Condé: Thuộc dòng họ Bourbon, một số là thủ lĩnh chiến đấu
trong hàng ngũ giáo phái Calvin.
Florentine: Thủ phủ cũ của vùng Tuscan, Italia.
Marie de Médicis: Vợ vua Henri IV, mẹ Louis XIII, khi chồng chết
được Nghị Viện cử làm nhiếp chính, bà đã đuổi những bộ trưởng thời Henri
IV, tin dùng Concino Concini, cưới Anne D’Autriche cho Louis XIII,
chiếm hết quyền lực cho đến khi thống chế De Ancre bị ám sát. Tiến hành
chiến tranh với con trai từ năm 1617 đến 1620, cuối cùng thỏa thuận với
vua Louis XIII cho vị giáo sĩ tư tế của mình là Richelieu làm Thủ Tướng
(1624). Bị đi đày và chết ở Cologne năm 1642.
Từ đây tác giả dùng từ Chancelier có nghĩa là Chánh Án Tối Cao cho
nhân vật Séguier chứ không dùng từ garde dessceaux: Người giữ các con
dấu, gọi là chưởng ấn nữa, tuy Chancelier cũng có nghĩa là giữ các con dấu
nhưng ở địa vị thấp hơn.